This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2004

Một chuyện có thật
















-Thật là một câu chuyện rùng rợn! Mụ gà mái già ở bên làng, nơi diễn ra tấn thảm kịch kêu lên như vậy. Sân khấu của câu chuyện rùng rợn ấy là một cái chuồng gà. Thật là đêm qua tôi sợ chẳng dám nhủ một mình. May sao chúng tôi lại đậu đông cả trên cùng một cầu.

Rồi mụ bèn kể lể sự biến ấy với một giọng làm cho cử toạ, kể cả lão gà sống có bộ mào rủ, cũng phải sợ dựng đứng cả lông lên.

-Việc ấy xảy ra trong chuồng gà, bên cạnh chuồng tôi. Mặt trời lặn, bọn bà mái leo cả lên cầu. Trong bọn có cô ả lông trắng, chân ngắn, đẻ trứng rất đều, và xưa nay chưa từng có điều tiếng gì. Leo lên đến cầu, ả ta bèn lấy mỏ rỉa lông. Một cái lông nhỏ rơi ra, ả lẩm bẩm: Thế là mình lại rụng mất lông rồi! ả có tính hay nói đùa; ngoài ra, như tôi đã nói, chả ai chê trách được ả ta điều gì. Sau đó ả ta ngủ thiếp đi.

Trời tối đen như mực. Bọn gà mái đậu xít vào với nhau. Một đứa, đậu gần ả mái trắng vừa nói lúc nãy, không ngủ. Mơ màng nghĩ cách sung sướng trên đời này, nó đang muốn chuyện gẫu tí chút với một đứa bạn.

-Này, đằng ấy có nghe người ta nói gì không? Tớ không muốn chỉ đích danh, nhưng một cô ả vừa thú nhận rằng đã chải lông làm đỏm. Tớ mà là gà sống thì cứ là tớ khinh đứt!

Ngay trên đầu lũ gà có vợ chồng con cái nhà cú mèo. Cả cái gia đình ấy đều rất thính tai và đã nghe thấy hết cả mọi chuyện. Cú con, mắt trợn tròn xoe, còn cú mẹ thì vỗ cánh phành phạch. Mụ bảo các con:

-Không nên rình mò nghe chuyện của ai cả. Nhưng dẫu sao ta cũng e rằng chúng bay nghe thấy cả rồi. Chính ta cũng nghe thấy hết, vì còn đôi tai thì còn vô khối là chuyện phải nghe. Dưới kia, có một cô ả gà mái mất giống đến nỗi rỉa lông để chài gà sống.

Cú đực bảo vợ:

-Coi chừng bọn trẻ con đấy. Đừng có để cho chúng nghe những chuyện ấy.

Cú mẹ đáp:

-ừ, tôi chỉ muốn kể lại cho chị cú mèo nghe ngay bên cạnh đấy thôi. Bạn thân nhất của tôi đấy.

-Hu hú! Cả hai mụ cú mèo vừa bay về phía chuồng chim vừa rúc lên - Hu hú! Có một ả gà mái nhổ tiệt cả lông để làm đỏm với gà sống. Phen này thì cứ gọi là chết rét chứ chẳng chơi.

Đàn bồ câu gù lên:

-ở đâu thế? ở đâu thế?

-Trong chuồng gà bên kia kìa! Việc này gần như chính tôii được trông thấy. Kể lại thì hơi khó, nhưng chuyện này có thật đấy.

Bồ câu gật gù:

-Bọn tôi tin các bác chứ!

Rồi chúng đem ngay câu chuyện sang chuồng gà bên cạnh. Chúng kể lể rằng:

-Có một mụ gà mái, người thì bảo hai cơ đấy, muốn làm ra vẻ khác thường, nhổ tiệt cả lông đi để chài gà sống. Thật là một trò chơi nguy hiểm. Như thế có thể bị cảm lạnh, hoặc lên cơn sốt, thậm chí có thể chết, và quả là cả hai đứa cũng đã chung số phận ấy rồi.

-Dậy đi thôi!

Gà sống vừa bay tót lên mái chuồng vừa gáy vang lên. Lão còn hơi ngái ngủ, nhưng lão vẫn bô bô lên:

-Có ba ả mái tơ... thất tình với một gà sống, đã chết vì đau khổ... Các cô ả đã tự vặt tiệt cả lông đi. Thật là khủng khiếp. Tôi thấy cần phải loan báo cho bà con biết chuyện này.

Tất cả quang quác lên:

-Kể tiếp đi! Kể tiếp câu chuyện đi!

Bọn bà sống gáy om lên.

Thế là câu chuyện truyền từ chuồng gà này sang chuồng gà khác và cuối cùng lại trở về nơi xuất phát. Người ta đồn rằng:

-Có năm ả gà mái đã tự vặt tiệt cả lông đi để thi xem đứa nào gầy mòn đi nhất vì tương tư một anh gà trống. Sau đó chúng đánh nhau, máu me đầm đìa rồi chết cả nút. Thật là điếm nhục gia phong và lại còn lại thiệt hại lớn cho nhà chủ nữa.

ả gà mái lúc đầu đã đánh rụng một cái lông con, bây giờ không nhận ra được đấy là chuyện của chính mình, vốn đứng đắn, ả ta kêu lên:

-Nhục nhã thay cho những mụ gà mái ấy! Cũng may là cái hạng gà như thế cũng chả có mấy! Phải phổ biến rộng rãi câu chuyện này ra mới được, ta sẽ làm đủ mọi cách để truyền câu chuyện này ra nước ngoài. Thật là đáng kiếp cho những quân khốn nạn ấy!

Thế là câu chuyện được đăng dưới nhan đề:

"một chuyện có thật"

Các bạn đã thấy chưa? Chỉ có một cái lông gà con thôi mà thành ra năm con gà mái được cơ đấy!

868

Thứ Tư, 15 tháng 12, 2004

Nói sao cũng được



Ngày trước, có một người rất thích uống rượu, có rượu là uống không biết chán, cho nên sinh ra nghiện nặng. Một lần, anh ta đến kinh thành làm ăn, tình cờ gặp người quen. Oái oăm là người quen này rất keo kiệt.

Sau khi gặp người quen, anh nghiện rượu nêu ý kiến :

- Lâu lắm rồi chúng ta mới gặp nhau, hiện giờ tôi đang thèm chén rượu. Chúng ta về nhà anh chơi, có chén rượu cho tôi giải sầu thì hay quá.

Người quen nói :

- Nhà tôi ở cách đây xa lắm, chẳng nỡ để anh vất vả vậy.

Anh nghiện nói :

- Không sao, xa lắm cũng chỉ hai ba mươi lý chứ mấy.

Người quen nói :

- Nhà tôi chật chội không dám mời anh.

Anh nghiện rượu nói :

- Chẳng hề gì, chỉ cần rộng bằng cánh cửa mở là được.

Người quen nói :

- Tôi không chuẩn bị cốc chén uống rượu, nên không uống được.

Anh nghiện rượu nói ngay :

- Xem anh nói đến mức nào nào, bao năm chúng ta là tri kỷ, không có chén cũng chẳng sao, bê cả lọ tu cũng được.

878

Thứ Tư, 22 tháng 9, 2004

Tình Hư Ảo





Anh tìm em trên vòng tròn lượng giác,
Nét diễm kiều trong tọa độ không gian.
Đôi trái tim theo nhịp độ tuần hoàn,
Còn tất cả chỉ theo chiều hư ảo.
Bao mơ ưóc, phải chi là nghịch đảo,
Bóng thời gian, quy chiếu xuống giản đồ.
Nghiệm số tìm, giờ chỉ có hư vô,
Đường hội tụ, hay phân kỳ giải tích.
Anh chờ đợi một lời em giải thích,
Qua môi trường có vòng chuẩn chính phương.
Hệ số đo cường độ của tình thương,
Định lý đảo, tìm ra vì giao hoán.

Nếu mai đây tương quan thành gián đoạn,
Tính không ra phương chính của cấp thang.
Anh ra đi theo hàm số ẩn tàng,
Em trọn vẹn thành phương trình vô nghiệm


Ðời tổng hợp bởi muôn vàn mặt phẳng
Mà tình yêu là quỹ tích của không gian
Kiếp nhân sinh những hàm số tuần hoàn
Quanh quẩn chỉ một đường lượng giác
Em không muốn cuộc đời toàn không số
Sống kiếp tròn công thức cộng, nhân, chia
Cạnh góc ôi phức tạp vô cùng
Mà hạnh phúc chính là đường biểu diễn
Sống tình yêu chờ vòng đời định tiến
Ðâu phải nghiệm số của đời trai
Em muốn bên anh tận cực của thiên tài
Ðể đo bán kính trần gian vũ trụ
Nếu giòng đời toàn là thông số
Bài toán tình thành vô nghiệm anh ơi!
Tình đầu là tam thức bậc hai
Ðể có thể ngồi yên xét dấu
Mà hai ta là kẻ chứng minh
Ðừng bao giờ đảo vế một phương trình
Tìm đạo hàm ngồi yên suy nghĩ kỹ
Sẽ thấy dần hệ số góc tình yêu
Ðừng vội vàng định hướng một hai chiều
Vì tình ái có muôn ngàn hệ luận
Lượng cuộc đời bằng ánh sáng lập phương
Trung tuyến đây kẻ lấy một đường
Trong mặt phẳng tương giao hai khóe mắt
Anh chịu khó kẻ thêm đường thẳng góc
Ðể tim em mãi mãi phụ kề anh
Môi nở hoa ôi công thức trung thành
Mặc thế sự vòng tròn ngoại tiếp
Em sung sướng nhận ra đường tiếp diễn
Của cuộc đời ta một hằng điểm điều hoà
Em sung sướng vội đóng khung đáp số.


Tình Toán Học

Tôi yêu em với tình yêu"Cố Định"
Hiến dâng em hai nghiệm số "Âm Dương"
Tìm chu kỳ của "Hàm Số"tuần hoàn,
Để im lặng một"Đường Cong" biểu diển
Dùng"Định Lý" thay người câu ước hẹn
Lấy"Lũy Thừa" làm dáng lá thư duyên
Giải"Đạo Hàm" mong tiếp xúc cùng em
Tìm "Tọa Độ" của"Phương Trình Toán Học"
Tôi yêu em đôi mắt buồn"Lưu Động"
Mũi dọc dừa"Thẳng Góc" với môi son
Hàm răng đều như"Bậc Nghiệm Phương Trình"
Đôi mày liễu như"Chiều Cong Định Hướng"
Tôi "Khai Triển" người yêu lý tưởng
"So Sánh" rồi ghi chú nơi đây
Tình yêu này là"Phương Trình Bậc Nhất"
"Chứng Minh" rằng tôi hết dạ yêu em

886

Thứ Ba, 17 tháng 8, 2004

Cứ Ngỡ



Khi anh thấy
mây trời lờ lững
nhớ vô cùng
gió chẻ tóc em bay
khi anh thấy
nắng vàng phơi lấp lánh
phút tuyệt vời
say đắm mắt em mơ
khi anh thấy
sương giăng đường cũ
ngở hình như
em rất vội dễ thương
khi anh đến
sóng thì thầm với cát
cứ ngỡ rằng
em hát khúc tình ca.
820

Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2004

Người Góa Phụ Ở Thành Ephesus














Cách đây vài trăm năm có một người lính trẻ canh gác năm chiếc giá treo cổ ở bên ngoài thành Ephesus. Đêm đó, trời tĩnh mịch, không một ngọn gió. Mặt trời lặn đã được một giờ, mọi vật trên mặt đất chìm dần vào bóng tối. Nổi bật lên trên nền trời nhợt nhạt là năm chiếc giá xử giảo, phô những vết đen xương xẩu với năm cái tử thi rũ rượi như năm kẻ chết trôi. Những kẻ bị hành hình là bọn đầu trộm đuôi cướp. Người ta đã phải cắt cử một người lính gác tới đây vì sợ rằng bạn bè thân thích của chúng sẽ lợi dụng đêm tối mang xác của chúng đi chôn. Người lính trẻ bước chậm chạp, đi đi, lại lại, lúc dậm mạnh chân, lúc đập cán giáo vào một cột xử giảo để phá tan không khí im lặng không thể chịu nổi mỗi lúc một tăng từ sau lúc màn đêm buông xuống. Cách chỗ trạm gác khoảng năm chục thước có một khu nghĩa địa. Nếu như chăm chú nhìn về hướng đó, y sẽ thấy những bóng trắng lờ mờ chập chờn trong bóng tối. Đó là những bia mộ bằng đá cẩm thạch như được pha thêm ánh lân tinh nhàn nhạt. Người lính trẻ biết rằng y còn những mười tiếng đồng hồ tối tăm nữa. Không thể cứ đi đi lại lại mãi được, thỉnh thoảng y dừng chân, ngồi xuống đất, lưng dựa vào một cột xử giảo. Song mỗi lần ngồi như vậy, y vẫn thận trọng để khỏi phải ngủ quên, bởi nếu một cái thây bị đánh cắp trong phiên gác của y thì chính thân xác y sẽ phải thay vào chỗ đó. Y biết rất rõ cái hình phạt ghê gớm này. Y đã mang theo bữa ăn tối và một bình rượu vang. Nghĩ đến hai thứ ấy, y thấy dịu hẳn lòng. Y quyết định để dành đến sau nửa đêm cho cơn đói làm tăng thêm sự ngon miệng, và khi ăn uống no nê, y sẽ thấy dễ chịu cho đến tận sáng mai. Nhưng dù sao. trước và sau bữa ăn khuya hai giờ, y vẫn phải nhắp vài ngụm rượu vang cho khí huyết lưu thông, hai bắp chân khỏi tê cứng. Y ngước mắt lên trời, chăm chú nhìn những vì sao. Sau đó, y khiêng một tảng đá trắng đến nơi cách mấy cái cột xử giảo mười bước và đặt thẳng hàng với chúng.

Từ chỗ đó, năm cái cột xử giảo chỉ như một cái, còn năm cái thây, một thây hơi thấp hơn bốn cái kia, sẽ kết thành một khối đen, không còn hình dạng gì. Từ đây y có thể quan sát chòm sao Nhân Mã chuyển động chậm chạp sau cái ngón tay dài của những cột xử giảo và y có thể đoán được giờ giấc dần dần trôi qua.

Thời gian trôi đi chậm chạp. Người lính trẻ tiếp tục phiên gác, lúc ra ngồi tựa vào một cái cột, lúc lại quay về tảng đá trắng, lúc lại uể oải đi đi lại lại. Năm cái xác với năm cái đầu ngoẹo lệch một bên, cùng những cánh tay thõng thượt, vẫn cúi xuống nhìn y như những con rối rũ rượi trong giây lát giữa những điệu nhảy của chúng.

Vào khoảng hơn hai giờ, lúc đang ngồi bên chân một cột xử giảo để nghỉ, tình cờ y quay nhìn về phía nghĩa địa. Đột nhiên y nắm chặt lấy ngọn giáo, tuy nhiên vẫn ở tư thế ngồi im, không động đậy. Y nghểnh đầu, căng mắt nhìn về phía xa xa. Y thấy một ánh lửa nhỏ rất sáng, giống như một tinh cầu chiếu qua màn sương, lung linh giữa những tấm bia mộ mơ hồ. Sau đó y đứng dậy và cứ đứng im như vậy hồi lâu. Y không phải loại người nhát gan và rất tin ở sức vóc trẻ khỏe, khéo léo của mình. Tuy nhiên, sự xuất hiện ánh sáng một cách lặng lẽ giữa chốn tha ma này cũng khiến cho tim y đập dồn dập.

Nhưng rồi sự tò mò choán hết các cảm giác khác và sau khi kiểm tra lại một lượt các cột xử giảo, y rón rén tiến về phía khu nghĩa địa. Y dừng lại. Có tiếng người khe khẽ, xa xôi. Y dừng lại, lắng nghe. Đúng là có tiếng rên từ một nơi xa xăm nào đó, nghe như tiếng người than khóc, lúc nỉ non, khi rền rĩ. Y tiến về phía có ánh sáng, bởi vì tiếng khóc than vọng ra từ chỗ đó. Chẳng mấy chốc, y tới sát bên khu nghĩa địa. Y dừng lại một lần nữa, thận trọng quay nhìn về phía trạm gác. Từ chỗ đó, y thấy rõ đủ cả năm cái cột xử giảo in rõ hình trên nền bầu trời. Nếu có ai đi gần chân mấy cái xác chết kia, y sẽ dễ dàng phát hiện ra ngay, nói chi đến việc kẻ đó dựng thang, trèo lên cột xử giảo để hạ xác chết xuống. Người lính trẻ quyết định sẽ tiếp tục đi xa hơn, chừng nào còn trông rõ mấy cái cột kia.

Nhưng bây giờ, khi xoay người để tiến về phía nghĩa địa, y nhận thấy ánh sáng đã biến mất. Y nghĩ : Có lẽ ánh sáng đó đã bị một bia mộ nào đó che khuất, bởi vì tiếng rên rỉ vẫn tiếp tục. Nếu như trước đây y đi theo hướng ánh sáng thì bây giờ y nhằm hướng tiếng kêu than mà đi.

Bước thêm vài bước nữa, y nhận thấy tiếng rên rỉ phát ra từ dưới lòng đất, bởi vì âm thanh nghe nghèn nghẹt. Y dừng lại vì một cảm giác hoảng sợ bất ngờ. Y tưởng tượng ra cảnh một thây ma, hai cánh tay vươn ra, mồm há hốc rên rỉ dưới lòng đất sâu. Nhưng khi y dừng lại lắng nghe, âm thanh kia chỉ còn là tiếng nức nở nho nhỏ, rồi sau đó lại bất ngờ òa lên. Y nghe rõ tiếng khóc và thở hổn hển. Y biết chắc rằng y đang đứng sát chỗ phát ra tiếng rên rỉ đó rồi. Y nắm chặt ngọn giáo trong tay, mò mẫm tiến lên phía trước, rồi bò quanh một hầm mộ.

Ánh sáng chợt bừng lên khiến y chói mắt. Nó phát từ cái hố sâu dưới lòng đất, ngay dưới chân y. Và chỉ khi mắt đã quen với ánh sáng đó, y mới nhận ra rằng nó phát ra từ lối vào, sau những bức thềm dẫn sâu xuống hầm mộ. Y đứng lặng nhìn xuống. Từ bên trong cửa hầm, tiếng khóc lại bật lên đột ngột khiến cho y cảm thấy chói tai cũng như mới đây, thấy chói mắt. Trán và ngực toát mồ hôi lạnh, song y đã quyết tâm đến cùng, lại có thêm ngọn giáo sắc trong tay, y mò xuống những bậc tam cấp. Tiếng khóc to át cả tiếng bước chân. Y đi sát bên tường để tránh ánh sáng rồi lặng lẽ nép mình ở một góc tối, nhoài mình ra để quan sát kỹ căn hầm.

Người đàn bà vẫn không đáp. Chị ta chỉ nhắm mắt lại một lát. Y nhận thấy cái miệng và đôi má chị ta dài thượt vì đau khổ và mệt mỏi. Người lính trẻ gỡ lấy cái bình rượu vang đang đeo lủng lẳng bên vai và mở nắp ra. Mùi rượu từ miệng bình bốc ra thơm ngào ngạt át cả mùi tử khí trong nhà mồ. Y đưa mời người đàn bà, song chị ta vẫn không cử động. Chỉ đến khi y đặt bình rượu kề vào môi, chị ta mới chịu há miệng nhấp một ngụm. Một lát sau, y lại thúc cho chị ta uống thêm chút nữa. Sau đó, chị ta lại ngồi im, mắt nhắm nghiền. Hơi men đầy sức sống của chất vang đã lan tỏa khắp cái cơ thể cứng đờ, tê dại của chị ta. Hồi lâu, chị ta mở mắt rồi giơ hai tay ra nắm lấy cánh tay y làm chỗ dựa, đứng dậy một cách khó khăn. Người lính trẻ đợi cho tới khi chị ta lấy lại sức lực. Y đứng im hồi lâu, rồi chợt nhớ đến những chiếc giá treo cổ không được canh gác, y thấy thót cả tim. Y cúi xuống, nói thầm vào tai người đàn bà :

- Ta đi ra ngoài kia nói chuyện.

Chị ta đặt một ngón tay ra hiệu rồi chỉ về phía người đàn bà kia, sau đó bước theo y, khó khăn chật vật mới trèo lên được mấy bậc tam cấp.Trong khi đỡ cho người phụ nữ yếu ớt, chậm chạp bước đi, y có cảm giác tất cả tâm trí của y đang căng lên muốn mau mau được trông thấy mấy cái giá treo cổ kia. Cuối cùng, họ đã ra đến ngoài mặt đất, y thở phào rồi quay nhìn người bạn mới quen. Y đã thấy rõ năm cái giá treo cổ và trên mỗi cái giá vẫn còn một thây người.

Nói về người phụ nữ kia, chị ta đứng ở bậc thềm cao nhất, thở hít cái không khí trong lành của buổi đêm và nhìn quanh như thể chị ta vừa bước vào một thế giới mới.

- Nói cho tôi hay - Y lại hỏi chị ta - Hai người đang làm gì ở đây ?

- Ông ạ! - Chị ta đáp - Bà chủ của tôi mà ông vừa thấy ở dưới nhà mồ tên là Evadne, góa phụ của tôn ông Theophanes.

Người lính trẻ chờ đợi người phụ nữ nói tiếp, song chị ta ngừng lại như không còn gì để nói thêm nữa.

Y lắc đầu :

- Tôi không biết cái tên đó.

Người phụ nữ hỏi lại :

- Bộ ông không biết quý danh đó sao ? Phu nhân của tôi nổi tiếng khắp nơi vì là một người vợ mẫu mực tuyệt vời, đến nỗi phụ nữ ở các nước khác cũng thường tìm đến để chuyện trò, tham khảo ý kiến của bà. Trong những ngày gần đây, bà lại càng nổi tiếng hơn, bởi khi ông chủ tôi mất, bà không thỏa mãn với việc khóc than tại nhà, thậm chí theo những tập quán để tóc rũ rượi, đấm vào ngực trần trước mặt mọi người, bà còn tuyên bố ý định sẽ đi theo ông chủ tôi tới nhà mồ và sẽ khóc than tại đó hết ngày này qua đêm khác cho đến khi kiệt sức tàn hơi thì thôi. Kể cũng lạ khi ông không hay biết gì về chuyện này, trong khi cả thành phố này đã lần lượt đến tận nhà chúng tôi, cố tìm hết cách khuyên nhủ bà hãy từ bỏ ý định đó đi, song mọi người đều thất bại. Chúng tôi tới đây đã được năm ngày và ở đây suốt từ bấy đến nay.

- Khi nói " cả thành phố này" - Người lính trẻ bảo - người ta chỉ có ý ám chỉ những ai liên quan đến sự việc mà thôi. Tôi không hề hay biết gì về chuyện này. Tôi là một người lính, hơn nữa lại là người nơi khác tới, cho nên quả thực tôi biết rất ít về những chuyện xảy ra ở thành phố, bên ngoài trại lính của tôi, trừ ba cái quán nhậu. Chúng tôi càng không biết nhiều về những chuyện đời tư của mấy vị tai to mặt lớn. Bộ chị cũng định tuyệt thực theo bà chủ sao ?

- Tôi không thể bỏ mặc bà ấy được - Cô gái tốt bụng đáp - Song thú thực là tôi không muốn chết. Vì vậy khi chúng tôi mới đến đây, tôi đã lén mang theo một ít thức ăn và một ít dầu thắp để chí ít chúng tôi cũng không phải ngồi thầm trong bóng tối. Nhưng đến đêm hôm qua, thức ăn vừa cạn, còn dầu thắp thì đến ngày mai cũng vừa hết. Thú thực rằng lúc đầu, tôi hi vọng là đến khi bà ấy đã quá mệt mỏi vì than khóc và đói khát, tôi có thể khuyên nhủ bà ấy trở về nhà, bởi đói khát, mệt mỏi có thể bẻ gãy ý chí của nhiều người. Thế nhưng bà ấy vẫn không hề chuyển lay, cho nên tôi đâm ra tin rằng ở đây lòng kiêu hãnh và tính bướng bỉnh, chứ không phải đơn thuần là tình yêu, đã khiến bà ấy kiên trì mục tiêu đến cùng. Chà ! - Cô gái thở phào - Rượu vang của ông mới dễ chịu làm sao ! Nó đem lại sức sống ấm áp cho ngôi nhà mồ lạnh lẽo này, bởi vì từ lúc chúng tôi đến đây, tôi đã cảm thấy tử thần gặm mòn dần trái tim tôi !

Người lính trẻ lại trao cho cô gái bình rượu. Cô gái khốn khổ lại uống thêm ngụm nữa, rồi thở phào khoan khoái. Sau đó, y đưa cho cô suất ăn tối của y.

- Cô ăn đi! - Y bảo - Cô cần cái này hơn tôi. Bây giờ tôi phải về chỗ gác, mai tôi sẽ quay lại.

Cô gái cảm ơn :

- Ông lại mang thêm thức ăn chứ ? - Cô gái thì thào, vẻ háo hức và đặt một bàn tay lên vai y - Nhớ mang thêm cả rượu vang nữa.

Người lính trẻ nhận lời, chia tay với cô rồi lần mò tìm đường đi giữa những bia mộ trong ánh sáng lờ mờ, cuối cùng trở về chỗ mấy cái cột xử giảo.

Suốt thời gian còn lại của phiên gác và cả ngày hôm sau, hình ảnh dễ chịu trong hầm mộ, bờ vai mịn màng giữa suối tóc đen bóng, rồi tấm thân xinh đẹp tự đầy đọa đau khổ kia luôn luôn len lỏi vào con tim y như một báu vật được cất giữ kín. Tâm trí và tình cảm của y trào dâng một niềm thương cảm thánh thiện. Y chẳng nghĩ được gì ngoài người đàn bà đáng yêu đang than khóc kia. Và mỗi khi nhớ đến nàng, y lại hình dung ra nàng cử động, rời bỏ cái tư thế phủ phục và từ từ quay lại, ngẩng đầu lên nhìn y. Y tưởng tượng ra khuôn mặt của nàng với hàng trăm nét vẻ khác nhau, song bao giờ cũng đáng yêu tuyệt vời. Không thể để cho con người duyên dáng kia phải tàn tạ như một đóa hoa bị lãng quên. Đã một tuần nay, nàng hủy hoại sắc đẹp của nàng. Nghĩ đến đây, y thấy trào dâng một niềm kinh hãi. Y tưởng tượng ra việc y có thể cứu nàng, bất luận nàng có ưng thuận hay không. Có lẽ y sẽ thuê một căn phòng trong thành phố, sẽ thuyết phục một anh bạn đồng ngũ gác thay cho y mấy cái cột xử giảo kia. Y sẽ bế nàng đi trong đêm tối, trên đôi cánh tay y, bởi nàng cũng yếu lắm rồi, không đủ sức kháng cự lại. Y sẽ để nàng cùng người hầu gái ở lại căn phòng y thuê. Hàng ngày y sẽ mang thức ăn và rượu vang đến đó thăm nàng, cho tới khi nàng quen dần với y và thậm chí cuối cùng có thể thương yêu y. Nghĩ vậy, y cảm thấy say sưa và háo hức mong cho chóng đến đêm hôm sau để có thể quay lại với nàng.

Khi trời vừa sẫm tối, y vui sướng đi nhận nhiệm vụ, đến thay phiên cho người lính gác ban ngày sớm hơn cả giờ quy định. Y mang theo rất nhiều thức ăn và rượu vang. Và khi màn đêm vừa buông, mọi vật đều yên tĩnh, y bỏ ngay trạm gác, lén lút chạy ra khu nghĩa địa. Lại một lần nữa, ánh sáng dẫn dắt y, song hôm nay ánh sáng chỉ còn lờ mờ, chứ không rõ ràng như đêm trước. Lần này y cũng không nghe thấy tiếng than khóc nữa. Xung quanh im lặng như tờ. dường như cả vũ trụ đang lắng nghe tiếng chân rón rén của y. Chẳng lẽ nàng chết rồi sao ? ý nghĩ đó thúc đẩy y bước gấp thêm, và chỉ lát sau, y đã tới nghĩa địa. Y len lỏi đi giữa đám bia mộ trắng. Khi tới nơi, y bước nhanh xuống mấy bậc tam cấp và đứng ở cửa dẫn vào hầm mộ.

Đến đây y dừng lại như lặng đi trong một giấc mơ đầy say mê, bởi vì trước mặt y cái khung cảnh được ánh đèn vàng chiếu kia vẫn y nguyên như cũ, dường như y vẫn đứng đó từ lúc tới đây lần đầu, đêm hôm trước. Giống như tất cả những gì xảy ra sau đó chỉ bắt đầu từ lúc này mà thôi!

Chính y sẽ là người phá vỡ cái không khí im ắng đó. Lúc này, đôi mắt y nhìn như muốn nuốt chửng lấy người đàn bà đang nằm phủ phục than khóc kia. Y có cảm giác phong độ của nàng có phần nào khác đêm trước rồi, tư thế của nàng nằm như một người đã chết cứng. Tim y như hóa đá, y chạy vội tới và cúi xuống bên nàng. Nghe thấy tiếng bước chân, người đầy tớ gái mở choàng mắt, xòe tay ra phía y, rồi cố gượng đứng dậy.

Y quay nhanh về phía cô ta, giọng thì thào giận dữ :

- Bà ấy chết rồi sao ?

Cô gái lắc đầu :

- Không, bà ấy đang ngủ.

Y thở phào, tim lại đập rộn ràng. Y lấy thức ăn và rượu vang mà y đã hứa sẽ mang lại, trao tất cả cho cô ta. Cô gái đón nhận với niềm vui sướng run run, trông đến ái ngại. Rồi y quay ngay đi, bởi vì toàn bộ tâm trí đang đặt ở người đàn bà than khóc kia. Y quỳ sụp xuống bên nàng, cố nhìn vào tận khuôn mặt nàng.

Nàng đang chìm trong giấc ngủ, đầu gục xuống trên một cánh tay duỗi thẳng và khuôn mặt bị mái tóc che khuất. Người lính trẻ gỡ chiếc mũ sắt ra, đặt xuống đất, rồi nhẹ nhàng lấy tay nâng một lọn tóc đen bóng của nàng lên, và bằng một tình cảm mến mộ, run run, y đưa lọn tóc áp lên môi mình. Cánh tay kia của nàng đang buông thõng bên cạnh, song y không dám đụng tới, vì e rằng sẽ quấy rầy giấc ngủ của nàng.

Y đã quỳ như vậy hồi lâu, trong lúc người hầu gái ăn và uống những thứ y mang tới. Khi quỳ bên nàng, y có thể nhìn rõ khuôn mặt của người chết mà một bàn tay của người thiếu phụ gần chạm tới. Khuôn mặt đó đã biến đổi ghê gớm từ đêm hôm trước và khi y nghĩ tới những biến đổi còn ghê gớm hơn nhất định sẽ xảy ra trong ngày mai, y thấy phải quyết tâm cứu nàng ra khỏi nơi đây ngay tức thì, kẻo sức khỏe của nàng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì cái thây ma đang ngày một thối rửa.

Đột nhiên nàng buông một tiếng thở dài nhè nhẹ, xa xôi, tuồng như linh hồn nàng đang từ một cõi xa xôi nào đó quay về. Sau đó, nàng từ từ nhấc đầu lên, mái tóc dầy đổ xuống và cuối cùng y nhìn thấy rõ khuôn mặt nàng. Đúng là khuôn mặt của một tiên nữ đang còn trong giấc ngủ, đôi mắt vẫn còn nhắm nghiền, song bất chấp những nỗi đau khổ, dằn vật dày vò, vẻ đẹp tuyệt vời của khuôn mặt đó vẫn được bảo toàn. Y nhoài người ra phía trước, giơ hai tay ra nắm lấy bàn tay để thõng của nàng.

Nàng từ từ uể oải mở mắt ra. Lúc đầu, cái nhìn của nàng không nói lên được một điều gì, tưởng như nàng đã quên hết mọi chuyện có liên quan đến sự sống, chẳng còn biết mình đang ở đâu. Sau đó, cặp mắt nàng dán chặt vào khuôn mặt chàng trai tóc vàng, đẹp trai đang quỳ mọp trước nàng. Coi bộ nàng chẳng tỏ ra ngạc nhiên, mà cũng chẳng tỏ ra hoảng hốt. Nhưng khi đôi mắt nàng nhìn thẳng vào mắt y, tưởng như hàm chứa một câu hỏi, nàng cố nhớ lại một điều mà nàng đã quên từ lâu rồi. Cho đến khi y buông bàn tay nàng, rồi đưa cả cánh tay ra đỡ nàng ngồi lên, nàng vẫn đăm đăm nhìn y không chớp mắt, như thể đôi mắt y là một pho sách mà nàng hi vọng sẽ đọc được ở đó một lời giải đáp cho điều nàng đang cần tìm.

Khi thấy bà chủ cựa quậy, người đầy tớ gái đã nhanh chóng tiến lại gần, đứng bên cạnh chiếc bàn đá. Người lính trẻ giơ tay ra, bảo :

- Cô đưa tôi cái bình rượu.

Cô gái mang bình rượu lại và y đưa nhẹ lên sát môi người thiếu phụ. Nàng ngoan ngoãn vâng lời như một đứa con nít và khi y bảo nàng uống một ngụm nhỏ, nàng tuân theo ngay tức thì. Sau đó, y đón lấy một mẩu bánh từ tay người hầu gái, tha thiết yêu cầu nàng nhấm nháp một chút. Nàng cũng vâng theo và cứ thế, dần dần từng tí một, y khuyên nhủ nàng hết ăn rồi lại uống. Y vẫn trong tư thế quỳ trước nàng, một cánh tay đỡ lấy người nàng. Còn nàng, trong lúc đón lấy những thứ y đưa cho, đôi mắt nàng vẫn như dán chặt vào mắt y không chớp, vẻ vừa dò xét, lại vừa ngạc nhiên.

Một lát sau, y để ý thấy đôi môi nàng đã mấp máy như cố nói gì đó. Y ghé sát tai xuống gần miệng nàng mới nghe rõ những tiếng thì thào như sau :

- Tôi tưởng tôi đã chết rồi cơ mà!

Người lính trẻ kéo sát nàng lại phía y và cũng thì thào :

- Bây giờ nàng bắt đầu một cuộc sống mới rồi !

Y đỡ nàng trên tay và giữ cho đầu nàng tránh nghiêng về phía cái tử thi kia. Y bế nàng ra một góc nhà mồ, ở đấy, người đầy tớ gái đã trải sẵn một chiếc khăn choàng phủ kín để không còn trông thấy cái tử thi nữa. Rồi cả ba ngồi im trong ngôi nhà mồ nhiều tiếng đồng hồ, lặng lẽ không một tiếng động, cho đến lúc ngọn đèn bắt đầu nhấp nháy, lụi dần chỉ còn một quầng nhỏ màu xanh rồi tắt hẳn.

Người hầu gái đứng lên, định đổ thêm dầu vào đèn, song khi nghe thấy tiếng động, người thiếu phụ nhè nhẹ cựa quậy đầu trên ngực chàng lính trẻ và nói thì thầm với y điều gì đó. Đến lượt y, y quay ra bảo với cô gái cứ để nguyên ngọn đèn như vậy. Và khi mọi vật chìm trong bóng tối, người lính trẻ cảm thấy hai cánh tay của người thiếu phụ quờ quạng bíu lấy cổ y, mặt nàng áp chặt vào mặt y. Nàng khóc thút thít, và y cảm thấy những giọt nước mắt lăn trên má y. Y có một cảm giác rất êm dịu như đang ở trên thiên đàng.

Chắc chắn rằng xưa nay chưa hề có một cặp tình nhân nào hội ngộ trong một hoàn cảnh kỳ quặc hơn họ : trong bóng tối của một nhà mồ và chỉ cách khoảng một cánh tay là thi thể của người chồng mà mới đây còn được người thiếu phụ vật vã khóc than, thương tiếc.

Còn không đầy hai giờ nữa thì trời sáng. Người lính trẻ nhận thấy không thể nấn ná thêm nữa khi chợt nhớ ra rằng mấy cái cột xử giảo bị bỏ không canh gác đã quá lâu. Y thấy choáng váng, y ghé sát vào tai người thiếu phụ, thì thào :

- Tôi phải đi đây, bởi vì chẳng còn mấy lúc nữa, người lính gác phiên ban ngày sẽ đến thay chỗ cho tôi.

Song nàng vẫn cứ bám riết lấy y. Y không tài nào gỡ ra khỏi vòng tay của nàng được.

Y lại phải thì thào tiếp :

- Tôi phải đi đây, bởi nếu như người ta phát hiện ra tôi bỏ gác, tôi sẽ bị tống ngục hoặc bị phát vãng tới một thành phố xa xôi, em yêu ạ! Như vậy tôi sẽ phải chia tay vĩnh viễn cùng nàng.

- Anh hãy thề đi - Nàng thì thào - Thề rằng đêm nay sẽ quay lại đây.

Và khi y thề xong, nàng mới buông ra cho y đi khỏi hầm mộ, lên với không khí trong lành ở bên trên mặt đất. Những suy nghĩ của y bị giằng xé giữa một bên là thiên đàng y đã tìm thấy trong hầm mộ và một bên là nỗi lo lắng thiêu đốt, không biết mấy cái cột xử giảo có an toàn hay không.

Khi y lên đến mặt đất, tim y như ngừng đập. Y đưa tay lên che miệng để khỏi kêu thét lên. Năm chiếc cột xử giảo vẫn in rõ hình trên nền trời xám ngoét, nhưng một cái xác ở một cột xử giảo đã biến mất !

Y bắt đầu chạy, chân vấp phải những tảng đá rải rác trên mặt đất. Y điền cuồng hi vọng rằng khi tới chỗ cái cột xử giảo kia, y sẽ phát hiện ra là cái xác vẫn còn treo ở đó, hoặc có thể là bị rớt xuống đất cũng nên. Tuy nhiên, y chợt thấy hoảng sợ. Liệu một cái xác còn mới, chưa bị thối rửa có thể nào lại rớt khỏi xiềng xích cột chặt nó vào đó được chăng ? Khi tới nơi, y gần như ngộp thở và run rẩy nhận ra rằng đúng là cái xác đó đã biến mất rồi! Xiềng xích vẫn còn nằm đó, dưới chân cột xử giảo. Y cầm sợi dây xích lên và nhận thấy một mắt xích đã bị dũa đứt. Sau đó, trong nỗi lo sợ tột cùng, y cứ đứng trân trân nhìn cái cột xử giảo mà sau đây sẽ đón nhận cái thây ma của chính y thế vào đó. Y chạy trở lại ngôi hầm mộ với một nỗi tuyệt vọng ghê gớm. Y thuật lại cho người tình của y nghe mọi chuyện vừa xảy ra, kể cả cái số phận cay nghiệt đang đón chờ y.

- Tuy tôi đã đánh mất danh dự quân nhân - Y than thở với nàng - song tôi không muốn bị treo cổ bên cạnh bọn bất lương kia. Em yêu, hãy cho tôi được gục đầu trong cánh tay em cho đến sáng, sau đó tôi sẽ gục ngã dưới mũi giáo của chính tôi. Song hãy cho tôi một ân huệ cuối cùng là sau khi tôi chết, nàng hãy để thi thể của tôi nằm lại tại đây và hãy dành ra một ngày ngồi cầu nguyện cho tôi.

Người thiếu phụ kinh hoàng khi được biết mối tình vừa mới chớm nở, đang tràn trề hi vọng, thế mà lại sắp sửa tuột khỏi tay nàng. Nàng lại bám riết người tình, nức nở rền rĩ, trong lúc đó người hầu gái cũng đang vừa đấm ngực, vừa kêu khóc ầm ĩ, góp thêm những lời kêu than cùng với bà chủ của mình. Khi người thiếu phụ đã tới chỗ tuyệt vọng cao độ, nàng bỗng ngưng khóc lóc. Nàng buông cánh tay đang bíu chặt lấy cổ người lính trẻ, rồi bằng một động tác dứt khoát, quay lại chỗ bàn đặt thi hài, cuộn tấm phủ đang che cái tử thi.

- Cần phải làm ngay bây giờ để bảo đảm an toàn tính mạng cho anh. - Nàng nói.

Người lính trẻ đứng sững sờ, phân vân, song ánh mắt y bỗng lóe lên một điều khi y chợt hiểu ra. Lúc người thiếu phụ quay nhìn đi chỗ khác, người đầy tớ lay cánh tay y. Cô ta nắm lấy chân cái xác chết và ra hiệu cho người lính nâng đầu xác chết lên. Y làm theo. Hai người khiêng cái xác lên những bậc tam cấp. Chậm chạp và mệt nhọc, bởi cái xác cũng rất nặng, họ khiêng qua khu nghĩa địa rồi tới chỗ chân cột xử giảo bị khuyết một cái xác. Sau khi cột xiềng xích quanh xác và được người đầy tớ gái bạo gan giúp sức, y trèo lên cột xử giảo và treo cái xác vào chỗ khuyết. Rồi khi trời sáng, người lính mới đến nhận gác thay y, thấy y vẫn đứng ở vị trí gác với đủ năm cái xác bị hành hình trên năm cột xử giảo.

Còn người lính trẻ, bị mê hoặc trước một người đàn bà mà tình cảm đột ngột thay đổi ghê gớm như y đã từng được chứng kiến, lúc này đã được giải ngũ và chuyển về sống ở một thành phố khác cùng với người vợ mà y chinh phục được trong một tình huống hết sức dị kỳ.

846

Thứ Hai, 5 tháng 7, 2004

Tiếng Guốc



- Tôi vẫn nghe tiếng guốc của em qua đây!
- Vậy a! – Cô bé cười mỉm, đôi môi hồng chúm chím, hai bàn tay đặt ngoan ngoãn trên đầu gối, và tôi cảm thấy không cần phải giấu giếm một thứ gì trong lòng.
- Tôi đã trải qua một thời thơ ấu ở một vùng ngoại ô Sài Gòn. Ðất cát xám với hàng hà những cây bụi nhỏ trổ hoa đủ thứ màu, không thể đọc tên tất cả được. Hằng hà bướm được rủ rê về . Túm một đầu cái bọc nilon cột vào cành tre dài, rình và chụp, và tranh nhau mặc cho nắng đốt mớ tóc màu râu bắp.
Một thoáng mơ màng trong mắt cô bé .
- Những bụi tre già làm con đường tối om om. Thỉnh thoảng có cô gái đẹp xuất hiện ở một khúc quanh, anh nào giở trò trêu ghẹo về sẽ mắc chứng ngẩn ngẩn ngơ ngơ, ai nghiêm chỉnh, đến cuối đường được nàng nhổ cho ít nước miếng vô bàn tay gọi là trả hồn cho . Những anh chưa qua tiểu học như tôi dĩ nhiên không được cô gái quỷ để tâm rồi, nhưng má tôi tính lo xa, vẫn cho đeo một mảnh bùa hộ mệnh hình tam giác chéo qua ngực, gọi là “niệt”.
- Anh mà lớn bằng bây giờ, chắc cũng hổng sao đâu! - Cô bé nói chen vào, không biết vì khen tôi nghiêm chỉnh hay vì chê tôi xấu trai nữa . Tôi vội đằng hắng để lấy lại vẻ… nghiêm chỉnh:
- Rất nhiều những cái chuồng ngựa . Người ta nuôi ngựa để cứ chiều thứ bảy đưa ra trường đua Phú Thọ tranh tài . Tiếng hí, tiếng thở phì…, tiếng dậm chân đậm độp với tôi đã quá quen thuộc. Ngựa thấy ở khắp mọi nơi . Lề đường, nghĩa địa, sân banh, còn vào cả giấc mơ tôi . Cầm đống bạc mười đồng tôi chạy bay qua nhà bà Bảy biên số đề . Nhấp nhỏm chờ, số ra trật lất, mới hay đó chẳng là điềm gì hết, chỉ vì tôi thích chúng quá thôi . Những con ngựa cao lớn dáng thon chắc rất đẹp và những cái tên “khai sinh” cũng rất đẹp. Mỹ Nhân, Hoàng Hậu, Lý Lệ Hoa…
- Lưu Ðức Hoa, Huỳnh Nhật Hòa nữa…! – Cô bé cười rúc rích.
- Vườn nhà tôi rộng rãi, có anh Tín đến mướn ở một góc để nuôi ngựa . Anh Tính thường dùng một cái lược chải bờm cho chúng rồi thắt thành mấy cái bím điệu đàng. Chích cho thứ thuốc khiến nó cứ phi rần rật, rướn cổ hí vang. Một bữa anh đem theo về một chị mười sáu, mười bảy tuổi gì đó đẹp như tiên gọi là vợ . Chị vợ nhảy lò cò, “bán quán” với chúng tôi đến đứng bóng mới về nấu cơm. Chiều thì anh Tín đặt yên cương lên lưng ngựa, phi nhiều vòng ra phố về nhà để gọi là “quần chân”. Những láng giềng khác cũng vậy, chiều đến tối, cứ lóc cóc lóc cóc, đều đều như tiếng guốc gõ, nghe như…
- Tiếng guốc sứt đế của tôi đó chứ gì?
Cô bé bỗng dưng nổi sùng. Cô đứng phắt dậy, ngúng nguẩy đi về phía cầu thang. Tiếng guốc lốp cốp không chịu nổi, cô xách nó lên chạy chân đất hút vào trong tối . Nhưng tôi đã không đứng dậy đuổi theo, đầu tôi đang nặng trĩu những xúc cảm, những hình ảnh bởi vì cô bé ơi, câu chuyện vẫn còn chưa hết.
Chị vợ trẻ con bỗng bỏ đi mất tăm, con ngựa yêu nhất một lần vì cố quá sức đã gục ngã chỗ đích đến, và anh Tín một đêm đã bắn vào đầu mình. Tôi buồn và hoang mang quá, cứ đứng nhìn ngôi nhà và dãy chuồng ngựa bỏ không. Buổi tối, má Hai kêu tôi um lên là đã nhìn thấy hồn ma anh Tín lừng lững trong vườn, một lỗ to trên thái dương còn nhỏ máu, và đòi ba tôi dọn về phố ở . Là một cái cớ thôi . Má Hai thường ngày vẫn chê vùng quê này bụi bặm thiếu các tiện nghi và làm ra vẻ vì thương ba mà phải cố chịu đựng. Những chiếc móng chân nể đôi khiến má đau khổ, nên gặp cơ hội này cứ co rúm trong nhà và rên rỉ như vậy . Tôi thì giãy nảy, tôi không muốn đi, tôi đã quen chạy rong, dù gì thì ở đây vẫn còn đầy những kỷ niệm về má ruột tôi . Vả lại ngôi nhà ở dưới phố của chúng tôi đã có thằng Ðặng, con riêng má Hai ở đó và tôi chúa ghét nó . Giằng co nhưng rốt cuộc rồi chúng tôi cũng dọn đi, bởi rốt cuộc người lớn vẫn có lý hơn con nít.
Cô bé biết không! Tôi như con ngựa chứng không khép mình vào được thời gian biểu ở đây, tù túng và khó thở nữa, giờ ngủ trưa cứ thao láo mắt cua, và Ðặng được lệnh “trị” tôi . Ðầu tiên Ðặng đã không thích tôi ở trong phòng nó, và đây chính là cơ hội để thể hiện cái không thích ấy .
“Thượng phương chổi” tiền đót hậu tấu . Nhưng rồi cứ đót mà không thèm tấu . Trên mông trên lưng tôi chằng chéo những vết đỏ . Trời sật sừ mưa, tôi chạy từ ngoài đường về, vừa choáng vừa buồn nôn, đê mê run rẩy và cứ nghĩ mình sắp chết. Tôi mơ thấy xác tôi sóng sượt trên thảm cỏ ẩm ướt và lát sau bổng hóa xác một con ngựa, chết hẳn rồi nhưng trên lưng và đùi nó dường như đổ mồ hôi, những giọt đọng giống như những viên đá nhỏ long lanh trong suốt. Khát cháy cổ, mở mắt bỗng thấy mình đơn độc kinh khủng. Ba thì tất bật suốt trong cuộc sinh nhai, giữa phố xá bon chen mới thật khó khăn, một rồi hai đứa em ra đời, càng tất bật. Tôi với Ðặng như thể bị thừa thải . Ðặng tức tối nói rằng nó oán hết hai cha con tôi, làm như tôi không oán hai má con nó vậy.
Ðặng ăn như hạm cũng không thấy cao thêm, mặt nó quắt lại hanh hao những toan tính. Nó lo tôi kiếm chuyện bởi bây giờ tôi hạ được nó là cái chắc. Nhưng tôi kiếm chuyện để làm gì, có điều tôi cũng không tìm cách trấn an nó, cứ một kiểu im lặng. Cho đến ngày tôi đủ lớn để tìm được một việc làm, tôi nói với ba: “Con muốn tự lập”. Và cũng chính thức chia tay nó . Mắt nó đỏ hoe và tôi nghe tiếng đóng mạnh cửa đằng sau lưng.
Rong ruổi như con ngựa hoang, tôi vừa đi làm vừa đi học, vui một mình, buồn một mình, hì hục mà làm, lời nói thẳng tuột phát ra đôi lúc như bổ vô mặt người ta, nhiều người ghét “Ðồ ngựa non háo đá!” Rồi thì lăn lóc qua chỗ khác. Xong việc chạy như ma đuổi vô giảng đường, tóc tai lù xù, mặt đen nhẻm, tia mắt mệt mỏi mà như khinh người, bạn bè đứa ghét, đứa thương hại . Ðêm nằm đôi lúc nghe thấy tiếng lóc cóc từ ngày xưa vọng về, nhớ chuyện anh Tín và để nhận ra tâm hồn mình cũng ốm yếu, đơn độc biết bao nhiêu! Cần những dịu êm biết bao nhiêu!
Tiếng guốc cô bé vào lúc ấy bỗng vang lên, tách khỏi hết mọi thứ âm thanh, như một nét hồn nhiên hiếm hoi mà tôi thật thèm được chạm vào . Có sự liên hệ nào giữa những tiếng lóc cóc ấy, thật lòng tôi cũng không giải thích nổi. Sự diễn đạt vụng về chỉ làm nó hóa vô duyên đi!
oOo
Mấy hôm rồi không nghe thấy tiếng guốc cô bé .
Không có thì đám hổ lốn âm thanh ở đây trở nên khó chịu tới mức không ngủ được. Cô bé ném đôi guốc vô gầm giường rồi hay vì đã kiếm một lối khác mà đi! Ọp ẹp và nóng kinh khủng. Gió bị che chắn bởi “cái hộp” cao hơn đàng trước mặt nhưng dù gì đứng ở ngoài này con thấy khá hơn trong nhà . Xe cộ rậm rịch dưới đường. Một chiếc xe kình càng dừng lại dưới nhà . Thằng kép nghênh ngông cặp kính đen đợi . Ðứa con gái một lúc bước ra váy ca rô ngắn ngủn ngồi lên phía sau . Nó nhỏ, suông đuột như một đứa trẻ, cử chỉ lóng ngóng. “Úi chà, đúng là mẹ nào con nấy, nứt mắt là đã…” Hai người đàn bà đứng ăn bắp rang với nhau chồm người ra nhìn và bắt đầu phun ra những lời thô tục, tung hứng qua lại, bắn bẩn vô mặt nhau, bắn bẩn vô mặt tôi .
Xét ra thì ở đây có khối người có lai lịch u ám, chỉ thấy chạnh lòng cùng chút oán giận không rõ ràng. Tôi lùi vào trong nhà đóng kín cửa lại . Tôi không tin cô bé nỡ ném đôi guốc sứt đế để đi vào chân đôi giày cao gót rất đau, rất chật và dễ ngã kia . Chờ cho đêm thật sâu, chờ đến khoắc khoải tiếng lóc cóc ấy, và tôi nghe tràn dưới mắt mình những giọt vô vọng.

838

Thứ Hai, 7 tháng 6, 2004

Bẩm chó cả



Nhà nọ thấy quan lại tham nhũng, trong lòng rất khinh. Một hôm, các quan đến nhà chơi, trong số đó có cả mấy bạn đồng song thuở trước. Ông ta bảo người nhà dọn rượu thết.


Người nhà bưng mâm lên, ông ta đứng dậy thưa:


- Chả mấy khi rồng đến nhà tôm, các ngài có bụng yêu nhà nho thanh bạch đến chơi, có chén rượu nhạt xin các ngài chiếu cố cho.


Các quan cầm đũa, bấp mấy món. Các quan ăn thấy ngon miệng, liền khề khà hỏi: đây đĩa gì, kia bát gì...


Nhà nho thong thả nói:


- Ðây là chó, kia cũng là chó, bẩm toàn chó cả.

844

Thứ Sáu, 21 tháng 5, 2004

Cô Bé Kiêu Kỳ



Này cô bé... kiêu kỳ
"Cười một mình" coi thử !
Ngon như nàng Ngọc Nữ
Còn... chưa chắc nữa là !

Đừng tưởng bở, người ta
Thèm nụ cười đâu nhé !
Có nhiều đêm lặng lẽ
Ta ... chỉ khóc một mình !?

Ta ... cứ vờ lặng thinh
Cắt cái đuôi cà chớn
Bé đang cười ngon trớn
Nước mắt có lưng tròng ?

Này cô bé má hồng
Tuổi còn thơm mực tím
Đừng vội vàng tuyên chiến
Mà quê độ à nha !

Này cô bé... của ta
"Cười một mình" coi thử !
Có ngày ... xỉu bất tử
Vì cái điệu ... kiêu kỳ !

"Cười một mình" làm chi ?
"Cười hai mình" mới thú !
Nào cười lên coi thử
Hỡi cô bé... kiêu kỳ !818

Thứ Tư, 5 tháng 5, 2004

Bức tranh để lại
















Tôi ngồi dựa lưng vào những cột gỗ còn sần sùi vết rìu đẽo. Bấy giờ ngày đã hết từ lâu và đêm xuống mênh mông trên bờ bể. Một đêm hè gió lặng. Tiếng sóng vỗ nghe chừng cũng âu yếm dịu dàng hơn. Anh phó chủ nhiệm tập đoàn đánh cá Mũi Né treo cây đèn bão lên cột nhà rồi ngồi ghé xuống bên cạnh tôi. Hai cánh tay buông thõng dài đến quá gối. Anh thẫn thờ nhìn tôi mất một lúc rồi cất giọng ồ ề hỏi:

- Ai nói với anh tôi giữ bức tranh đó mà anh lặn lội đi tầm tôi vậy?

- Tôi nghe một người quen nói. Một chiến sĩ cũng là người Nam Bộ.

Anh phó chủ nhiệm chồm người tới:

- Có phải là một đồng chí tiểu đoàn trưởng không?

- Phải, anh ấy là tiểu đoàn trưởng, tên là Danh.

- Thôi, đúng rồi. Đúng là anh Danh rồi!

Anh ta vừa kêu lên vừa lập cập để hai bàn tay lên gối chân tôi. Đôi mắt của người đàn ông Nam Bộ trạc bốn mươi tuổi này chớp lia lịa, hai hàng mi đen rậm nhíu nhíu lại. Anh ta thu hai bàn tay về, thở dài một thôi rồi lắc đầu:

- Bức tranh... bức tranh đó... không có ở đây đâu. Tôi không còn giữ nữa. Nhưng mất thì chắc chưa thể mất được. Tới bây giờ tôi vẫn tin là nó hãy còn. Anh à, bức tranh đó vẽ Cụ không được sắc sảo lắm đâu. Là vì do một anh thợ họa hình ở miệt vườn vẽ thôi mà. Nếu đem so sánh với những ảnh Cụ bây giờ thì đâu đẹp bằng được. Nhưng có điều tôi dám quyết với anh là bức tranh đó không có bạc vàng nào trên đời này sánh nổi. Bởi vì ở trên đời này chắc gì đã có một người thứ hai vẽ được...

Nói tới đây anh đưa tay lên cào cào ngực. Tôi có cảm giác như trong ngực anh bấy giờ có cái gì nóng lắm.

- Trời, mà người vẽ bức tranh đó lại chính là em tôi. Em của tôi đã họa bức tranh đó trong những giờ phút cuối cùng của đời nó... Thôi thì tôi cũng nói cho anh rõ hoàn cảnh gia đình của tôi. Cha mẹ anh em tôi đều chết sớm hết anh à. Tên nó là Đô. Tôi không muốn em tôi dốt nát, nên chi hồi đó một mình tôi đã làm lụng, đi gặt hái, đi câu lưới nuôi em tôi học hành. Nói thiệt với anh, tôi thì có phần hơi quê mùa cục mịch, đầu óc không đặng sáng sủa bằng em tôi. Với lại tánh tôi củ mỉ cù mì, chớ tánh em tôi nó gan góc lắm. Trong làng hễ ai bắt nạt tôi thì nó bênh tôi, dám chống chọi với bất cứ đứa nào hiếp đáp tôi.

Tính ra như vậy thì nó đã học hết lớp nhứt trường làng. Sau nó thi đậu tên tỉnh học. Học đâu gần được một năm thì thôi học. Ngay hồi nhỏ nó đã có hoa tay. Thôi học về đi làm ruộng đi câu kéo với tôi chớ nó vẫn ham hố vẽ vời. Khắp nhà tôi treo la liệt những hình, tranh của nó. Nào là hình lũ trẻ chăn trâu ngoài đồng, hình người đi chài cá, hình phong cảnh, đủ thứ.

Năm cái đình làng tôi được phép tu sửa, làng đã rước em tôi ra vẽ lại con kỳ lân nơi tấm bình phong trước đình. Hình con kỳ lân do em tôi vẽ mãi tới kháng chiến cũng còn. Sau Tây nó mới phá đi lấy gạch xây bót. Em tôi lại có tập họa hình. Họa được hình người rất giống. Ông già bà cả trong làng được nó họa cho, ai cũng đều ngợi khen. Không bao lâu cả làng đều gọi nó là thằng Tám họa hình. Vẽ một tấm hình nó được người ta trả một giạ lúa, lại được mời đi ăn giỗ. Cái gì chớ uống rượu thì tôi phải chạy em tôi. Thằng uống rượu cứng quá, càng uống mặt càng xanh tái chớ không đỏ. Lúc kháng chiến nó tham gia tự vệ. Năm bốn sáu đánh du kích bị trúng thương ở tay. Vết thương làm độc sưng vù lên. Ông bác sĩ ở tỉnh nói:

- Tám Đô à, tôi thấy chú phải chịu cho tôi cưa cái tay của chú, không cưa thì chết đa.

Em tôi đáp:

- Nếu không cưa mà phải thiệt mạng thì tôi chịu cưa. Còn cưa mà chết thì tôi giết ông.

- Nhưng không có cưa nghề đâu. Tôi cưa bằng cưa thợ mộc liệu chú có chịu nổi không?

Em tôi lặng lẽ bảo:

- Được, cứ cưa!

Và nó xoắn ngay tay áo lên. Từ nói đến làm không đầy mười lăm phút. Không có rượu an-côn, ông bác sĩ khử trùng lưỡi cưa bằng rượu đế. ổng cưa mà tay ổng còn rung thì anh biết. Ngược lại em tôi chẳng hé răng kêu một tiếng. Nó ngoảnh mặt đi nơi khác, mồ hôi chảy có giọt xuống hai bên màng tang... Đó, tánh khí của nó như vậy đó. Cụt mất tay trái rồi nó vẫn đi đánh chim sẻ, đi gài lựu đạn. Lúc đó bận rộn nhứt là những lúc sắp tới ngày sinh nhật Cụ. Tôi còn nhớ đồng chí chánh trị viên xã đội trưởng thường bảo nó:

- Thôi, Tám Đô, mày không không phải đi gài lựu đạn nữa. Gần tới ngày mười chín tháng năm rồi. Việc đánh chác để tụi tao, còn mầy ở nhà lo họa hình Cụ. Bà con ai cũng muốn có một tấm ảnh Cụ để treo. Vậy thì mày ở nhà vẽ. Kỷ niệm ngày sinh nhật của ông Cụ, mỗi nhà đều có ảnh thì quý lắm.

Thế làm thằng Đô em tôi tối ngày sáng đêm cặm cụi lo họa ảnh Cụ. Hồi đó vẫn còn vẽ theo ảnh cũ, Cụ trông gầy chớ đâu được hồng hào như bây giờ. Thằng em tôi vẽ mãi nên nó thuộc lòng như hết mọi nét trên khuôn mặt ông Cụ. Vẽ xong bức này lại vẽ tới bức khác. Bà con tới lui nhà tôi suốt ngày kính cẩn rước ảnh Cụ về treo. Em tôi vẽ xong cho mỗi nóc gia một bức rồi lại còn vẽ thêm một tấm thiệt lớn, tô màu coi rất sắc sảo. Trưa cái hôm vẽ xong nó hỏi tôi:

- Anh Bảy ơi, anh có biết em vẽ bức tranh lớn này để mần chi không?

Tôi chưa kịp đáp thì nó ghé vào tai tôi nói nhỏ:

- Để treo lên ngọn dừa lão ngoài chợ cho đồng bào nhìn thấy và để tụi lính nó coi. Kẻo tụi nó trách mình không cho nó biết chân dung của ông Cụ mình.

Em tôi nói rồi cười ha hả. Từ ngày kháng chiến bao giờ nó cũng cười vui như vậy. Năm đó nó ới có hăm hai tuổi. Mặc dù đã bị mất một tay nhưng lúc nào nó cũng lạc quan. Thằng em tôi hễ nó nói là nó làm thiệt. Chiều hôm đó mới nói với tôi đó thì sáng ngày đã nghe thấy bà con đi chợ về nói rum lên là ảnh Cụ đã thấy ở trên ngọn cây dừa lão. Bà con ở thị trấn được nhìn thấy ảnh Cụ, ai cũng cảm động rưng rưng. Bọn lính đi tuần chỉ dám đứng nghiêng ngó chớ không dám trèo lên lấy. Vì ở dưới gốc dừa có cắm tấm biển đề "Không ai được hạ ảnh Hồ Chủ tịch. Nếu trái lệnh sẽ bị trừng trị ngay tại đây". Thằng Tây xếp bót, tôi còn nhớ, tên nó là Mônôry, một thằng Tây rất trẻ, mới hăm sáu tuổi, đẹp trai, ở bên Tây qua có hơn một năm mà đã giết riêng ở Hiệp Hưng này gần ba chục người. Sáng đó thằng Mônôry nghe tụi lính về báo tin, thì nó liền đi ra tận nơi, đứng chắp hai tay sau lưng nhìn lên tranh Cụ rất lâu. Nhưng nó không ra lệnh tháo gỡ gì cả. Một chốc sau nó đích thân dẫn hai trung đội xộc vào làng. Du kích nổ súng. Đánh nhau tới chiều, bọn địch chết sáu bảy đứa. Lúc rút về chúng bắt theo một số người. Trong số người bị bắt có một đồng chí đảng là anh Chín. Bởi chân ảnh cao như chân sếu nên chúng tôi gọi ảnh là anh Chín Giò. Anh Chín Giò về tới bót thì bị lính ngụy nhận mặt. Thằng Mônôry cho điệu anh ra gốc dừa lão. Nó rút súng lục trỏ lên ngọn dừa bảo anh trèo lên tháo tấm tranh Cụ xuống. Anh Chín Giò thừa biết là lúc ta treo tranh không có bẫy lựu đạn gì cả, nhưng anh nói:

- Du kích có gài lựu đạn, tôi không dám leo.

Thằng Mônôry lên đạn súng lục:

- Trèo lên ngay không tao bắn tức khắc.

Anh Chín Giò đứng tại gốc cây dừa ngước nhìn lên ảnh Cụ. Thằng Mônôry giục lần thứ hai. Anh quay lại nhìn thẳng vào mặt nó lắc đầu. Nó liền giơ súng bắn chết anh tại chỗ. Anh Chín Giò chết rồi mà bức tranh chúng nó vẫn chưa đem xuống được. Thằng Mônôry tức tối như điên. Sau đó nó bắt đồng bào leo lên lấy ảnh, bà con không dám leo. Bắt lính, lính cũng không dám trèo. Thằng Mônôry rút súng dí sau lưng một thằng lính ngụy. Nhìn họng súng trong tay xếp bóp, thằng lính ngụy phải leo. Leo lên lưng chừng cây dừa trên ngọn thấy động chạm làm rơi mấy trái dừa non sạt sạt. Thằng lính hoảng quá, từ trên tuột xuống một cái rột. Nó chấp tay lạy thằng xếp lia lịt, bảo có bắn nó thì bắn chớ nó không dám leo lên nữa. Thằng xếp bất lực, cười gằn bỏ về. Thành ra bức tranh Cụ vẫn còn y nguyên trên ngọn dừa. Hai ba bữa sau xảy ra có một trận giông lớn, bức tranh mới bị gió thổi bay mất. Bà con tìm khắp bờ chuối đọt tre mà không gặp. Trong ấp tôi có một thằng cha tên Tư Râu, thuở giờ chuyên môn nói dóc. Lần đó y vê râu nghiêm trang nói với mọi người: "Thôi, đừng có kiếm chi cho mất công. Hồi đêm tôi nằm chiêm bao thấy ông thần gió tới báo cho tôi rằng chính ông đã đem bức tranh đó đi. Tôi mới trách ổng: "Đáng lẽ ngài muốn thỉnh cụ đi cũng phải cho bà con hay trước chớ?". ổng năn nỉ tôi: "Không thể cho hay trước đặng bây giờ tôi báo cáo cho anh biết, anh nói lại với bà con giùm tôi"... Thằng cha Tư Râu xưa nay nói dóc quá nên khi y nói gì ra cũng hay bị người ta chất vấn hoặc cãi lại, thế mà lần đó hình như không có ai phản đối y cả.

Anh Bảy phó chủ nhiệm kể đến đấy dừng lại, cởi áo ra rồi nói tiếp:

- Tôi là bạn thân với anh Chín Giò. Tôi nghe tin ảnh chết thì hết sức phục ảnh. Anh à, mình hiểu cái tinh thần của anh Chính nên mình khâm phục anh Chín là phải, nhưng tôi cứ hồ nghi rằng thằng Mônôry nó bắn chết anh Chín chớ chưa chắc nó biết được lý do anh Chín không chịu trèo lên là bởi làm sao?... Có khi nó tưởng anh Chín mình sợ bẫy lựu đạn cũng nên.

Tôi cũng phân vân đáp:

- Chẳng biết nó có hiểu được không?

Anh Bảy ngắt lời tôi:

- Không, rồi sự ấy nó phải hiểu. Sau đó một vài tháng có một người nữa, cũng như anh Chín, đã làm cho nó hiểu thêm. Người đó là em tôi. Phải, Tám Đô bị bắt sau đó hai tháng. Vì hầm bí mật bị chó săn đánh hơi được. Thằng Mônôry lần đầu tiên thí nghiệm chó săn thì bắt được em tôi. Kể ra nếu lúc Tám Đô nhảy lên khỏi hầm mà không bị một viên đạn lễu trúng trán và đùi thì nó đã chạy thoát. Nhưng vì bị thương khá nặng nên phải chịu bắt. Lúc đầu thằng Mônôry cũng cho em tôi là một du kích nào đó thôi. Nhưng mấy thằng ngụy người Hiệp Hưng bảo với thằng Mônôry:

- Thưa ông xếp, thằng này tên là Đô. Chính nó đã vẽ ảnh lãnh tụ của nó treo lên ngọn cây dừa hồi tháng trước. Lúc ông xếp chưa đổi về đây, năm nào nó cũng đều làm như vậy!

Thằng Mônôry biết ra việc ấy thì chiều hôm đó nó chưa đem bắn em tôi vội. Tờ mờ sáng hôm sau thình lình nó dẫn lính vây ráp bắt tất cả mọi người ở chợ và một số người ở Hiệp Hưng, lùa tất cả mọi người ra bãi cỏ gần cầu sắt để coi xử em tôi. Có người chạy vô xóm cho tôi hay. Tôi vì nóng lòng thương em, nên liều mạng mò ra, lẫn vào đám đông bà con. Khi tôi ra tới nơi thì đã thấy em tôi bị trói ngồi trên bãi cỏ. Thằng Mônôry nói tiếng Tây với mọi người. Tên lính thông ngôn dịch lại:

- Bữa nay ông xếp đem xử cái thằng đã vẽ ảnh Hồ Chí Minh. Thằng đó ông xếp đã ra lệnh thộp nó từ lâu. Nay chính tay ông xếp đã bắt được nó. Ông xếp muốn nó đền tội trước mặt mọi người, cho tất cả ai cũng đều đặng trông thấy.

Tôi nghe nó nói xong chỉ còn cố ráng đứng nhìn mặt em tôi một lần cuối, để khi súng nổ rồi tôi có thể nhớ thiệt lâu cái gương mặt em tôi trước khi nó chết. Mặt em tôi bấy giờ nhợt nhạt hẳn đi, vì vết thương ở đầu và chân chảy mất nhiều máu quá. Nhưng nói chung nó vẫn bình thường. Dưới mớ tóc đắp rủ lên mép trán, đôi mắt nó liếc nhìn tên xếp bót trông vừa bén lạnh lại vừa dữ tợn. Đôi mắt ấy khi bắt gặp tôi thì dịu hẳn ngay xuống, không buông tôi ra nữa, và cứ lặng lẽ nhìn cho đến lúc tôi phải quay mặt đi mới thôi. Có gần năm phút mà chúng nó vẫn chưa rục rịch gì. Nhìn về phía thằng Mônôry, tôi lạ quá, thấy nó cứ đứng thừ cái bộ mặt của nó ra. Một tay nó nắm cán súng lục đeo trễ bên hông, một tay bẹo cằm, có vẻ suy nghĩ lung lắm. Bọn lính đã ghìm những cây súng trường Anh đầu bằng, chỉ đợi thằng Mônôry hạ lệnh bắn vào em tôi. Vừa lúc đó thằng Mônôry giơ tay. Tôi nhắm mắt day mặt chỗ khác. Nhưng mãi không nghe thấy súng nổ, và mọi người xung quanh bỗng xôn xao cả lên. Tôi quay lại thấy thằng Mônôry vung mạnh tay ra hiệu cho bọn lính giạt qua hai bên. Nó vẫy tên lính thông ngôn cùng đi với nó lại trước mặt em tôi. Nó hỏi em tôi:

- Trước đây mày học vẽ ở đâu? Có học ở trường Gia Định không?

Em tôi lờ đi không đáp. Thằng Mônôry tự trỏ ngón tay cái vào ngực:

- Mày không rõ chớ tao cũng là họa sĩ đây. Thấy mày biết vẽ nên tao chưa nỡ bắn mày. Nhưng tao hỏi: Nếu bây giờ tao thả mày ra thì mày còn dám vẽ nữa không?

Em tôi trề môi đáp:

- Vẽ là nghề của tao mà.

- Bây giờ tao cho mày vẽ mày dám vẽ không?

- Vẽ cái gì?

- Vẽ gì tùy ý. Vẽ hình Hồ Chí Minh cũng được.

Em tôi đáp giọng cứng cỏi:

- Mày nói chuyện nghe ngu lắm. Hình lãnh tụ của tao mà sao tao không vẽ được. Bất cứ ở đâu tao cũng vẽ được hết thảy!

Thằng xếp Mônôry nghe em tôi đáp thì nó giương cặp mắt xanh lè như mắt mèo nhìn suốt người em tôi. Nó day qua nói vào tai tên thông ngôn. Tên thông ngôn bảo em tôi:

- Ông xếp nói thiệt đấy. Nếu anh dám vẽ trước những mũi súng này thì ổng lấy danh dự của một người quân nhân bảo đảm không bắn anh bất tử. Nè, anh không biết, chớ ổng là một người có học vấn, trước kia hồi ở bên Tây ổng có học vẽ. Bây giờ thỉnh thoảng ổng cũng hay vẽ chơi. ổng muốn coi anh vẽ. ổng sẽ cho người lấy đủ giấy bút cho anh vẽ tại đây. Anh vẽ được chớ?

Em tôi hất ngược mớ tóc ra sau gật đầu không chút do dự. Tôi không ngờ thằng xếp bót có ý định lạ lùng như vậy. Ban đầu tôi nghi nó bày ra việc này để dẫn tới cái sự gì đây. Nhưng tôi rất tin em tôi. Từ trước tới nay nó chưa từng chịu thua trí thằng địch bao giờ. Thằng Mônôry sau khi thấy em tôi gật đầu, nó liền móc túi lấy ra một xâu thìa khóa quẳng cho một tên ngụy. Trong lúc tên ngụy chạy về bót thì thằng Mônôry ra lệnh mở trói cho em tôi. Nó đi đến đứng trước mặt em tôi, miệng bập bập cái ống píp. Nó lừ ngừ nhìn em tôi một lúc rồi rút phắt cái píp thuốc ra khỏi miệng, lên giọng:

- Tụi như chúng mày mà biết vẽ cái gì... Nếu mày biết vẽ ắt là mày phải có phần nào biết yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Tại sao mày không vẽ phong cảnh, vẽ động vật hoặc vẽ cái gì khác... mà lại đi vẽ thứ này để phá rối trị an?

Và nó hạ thấp giọng xuống:

- Mày có biết ông Pát không? Ông Pát là một nhà điêu khắc và họa sĩ có tài, rất nổi tiếng ở Paris. Ông sang bên này làm giám đốc trường mỹ thuật Gia Định để giáo dục cho tụi bây hiểu biết về cái đẹp, về nền nghệ thuật hội họa lâu đời của một nước văn minh lớn ở nước Pháp chúng tao. Thế mà tụi bây đã giết ổng, giết một người nghệ sĩ... Ông Pát có phải là một nhà quân sự gì đâu. Ông không phải là người cầm súng. Ông chỉ đi chung với những sĩ quan trong đoàn xe hộ tốngt trên đường Là Ngà. Tụi bây đã bắn ổng chết...

Nghe nó nói, em tôi im lặng một chốc rồi ngẩng lên bảo:

- Thứ như mày mà cũng nói chuyện thiên nhiên, cây cỏ. Trước khi mày mở miệng nói với tao câu đó đáng lẽ mày phải nhìn khắp chung quanh cái bót này coi có còn một cái cây nào còn sống được không? Cây có trái tụi mày cũng đốn, cây sắp ra trái tụi mày cũng chặt. Tới từng ngọn cỏ chúng mày cũng đạp lên... Mày nói mày là họa sĩ, thì tao cũng có thể tin cho mày đi. Mày lại nói nước Pháp có một nền nghệ thuật hội họa nổi danh. Có, cái đó có... Nhưng riêng tụi chúng mày thì đừng có xí phần vào, nghe không? Mày nói chúng tao giết chết ông Pát là giết một nghệ sĩ Pháp. Không, nhân dân Việt Nam chúng tao không bao giờ có ý định giết hại những người nghệ sĩ chân chính của nước Pháp. Trái lại chúng tao rất yêu mến những người đó. Mày có đọc quyển "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của lãnh tụ tao chưa? Trong cuốn sách đó, lãnh tụ của chúng tao có nói rõ "... Chúng ta đánh bọn thực dân xâm lược Pháp, chúng ta không đánh nhân dân Pháp"... Ông Pát nào mà mày nói đó nếu quả ổng có chết thì ổng phải cam chịu thôi. Chúng tao nã súng vào đoàn xe chở lổn nhổn bọ sĩ quan xâm lược chúng mày, đạn liên thanh của chúng tao có nhận mặt được ông Pát mà chừa ổng ra được đâu?

Câu chuyện đối đáp qua lại giữa thằng Mônôry với em tôi vừa đến đấy thì tên lính ngụy về bót khi nãy đã ra tới. Nó đem đến đưa thằng Mônôry một cuộn giấy vẽ trắng tinh và một hộp màu hình chữ nhật bằng gỗ đánh vẹcni nâu bóng nhoáng. Thằng Mônôry cầm các thứ đi lại chỗ em tôi. Nó mở tờ giấy, thận trọng trải ra trên cỏ rồi đặt hộp màu bên cạnh. Tôi hồi hộp theo dõi từng cử chỉ của em tôi. Bà con trước đó không ai muốn đứng nhìn cảnh thương tâm sắp diễn ra thì giờ chen nhau mà coi cảnh em tôi đang loay hoay chuẩn bị vẽ trên bãi cỏ. Bấy giờ em tôi chỉ có được cánh tay phải và chân trái là còn lành lặn. Mà cánh tay phải vì bị trói nghịt lâu quá, vừa được cởi ra nhưng chắc bị tê hay sao nên em tôi nó cứ quơ quơ một lúc mới cử động được. Đầu tiên em tôi mở hộp màu ra. Tôi thấy cặp mắt nó vụt sáng rực lên trước những gói bột màu lổn nhổn, những bút, những than vẽ. Hộp màu ấy đối với nó quý lắm. Có bao giờ nó sắm được một hộp màu như vậy đâu. Em tôi đưa tay bươi bươi những gói màu. Nhưng cuối cùng nó chỉ cầm lấy một mẩu than. Tôi hơi ngạc nhiên. Tôi đoán có lẽ em tôi nó biết sức lực của nó không cho phép có thì giờ rảnh rỗi để tô màu tô mè gì nữa. Cho nên nó chỉ chọn lấy một mẩu than rồi đưa cùi tay trái chận xuống tờ giấy rà vuốt cho mặt giấy nằm im. Nhưng khổ nỗi gió ngoài vàm sông cái thổi vào làm tờ giấy nằm trên cỏ cứ phập phều, em tôi loay hoay mãi mà không sao vẽ được.

Thằng Mônôry thấy thế liền sai tên thông ngôn tức tốc chạy về bót vác lại một cái giá vẽ. Rồi tự tay nó bê cái giá vẽ lại đặt trước chỗ em tôi. Nó bố trí sắp xếp, hạ trục giá thấp xuống, áp tờ giấy lên bảng vẽ, ghim kim bốn góc. Xong rồi nó xoa xoa hai bàn tay vào nhau, bước lùi ra. Em tôi liền duỗi cái chân bị thương sang một bên, tỳ khuỷu tay cục xuống cỏ, rướn người tới. Tay phải em tôi cầm mẩu than nhanh nhẹn phác họa những đường trên không khí chớ chưa chạm lên mặt giấy. Bỗng thình lình một giọt máu từ trên trán nó nhễu xuống giữa tờ giấy. Em tôi dừng tay, đôi mày nhíu lại đăm đăm nhìn giọt máu. Và nó từ từ buông mẩu than đang cầm, đưa tay lên quệt máu nơi trán. Tức thì tôi cảm thấy khắp người tôi máu nóng ran. Thằng Mônôry biến sắc. Nó luôn đưa tay gãi gãi bộ ngực lông lá của nó. Bà con chung quanh chạo rạo cả lên. Có người buột miệng kêu "Trời ơi..." và tiếng đàn bà khóc sùi sụt. Anh ạ, em tôi bắt đầu vẽ bằng ngón tay trỏ chấm máu trên trán của nó. Trước tiên nó vẽ đôi mắt Cụ. Tất cả sức lực nó đều dành cho việc vẽ đôi mắt ấy. Tôi đứng nhìn mà chân cứ như giẫm phải lửa. Bấy giờ tôi không còn nặng lo về số phận của em tôi lắm mà lại lo không biết em tôi có đủ sức vẽ xong bức tranh Cụ hay không. Việc đó bấy giờ đã trở nên quan trọng hơn cả cái tính mạng của em tôi nhiều. Tôi chỉ đợi hễ em tôi ngước lên bắt gặp tôi lần nữa thì tôi sẽ nhìn nó, trợ tinh thần và khích lệ nó. Nhưng nó không nhìn tôi. Từ đó trở đi, đôi mắt nó chỉ dán lên bảng vẽ. Vẽ được một bên mắt trái Cụ, em tôi mệt quá ngất đi. Thằng Mônôry sai lính xách gầu ra bờ sông múc nước rẩy lên mặt em tôi. Em tôi tỉnh dậy thì máu trên ngón tay trỏ của nó vừa ráo lại. Nó đưa mắt nhìn đồng bào một lượt đoạn quệt máu trên trán cúi xuống vẽ. Lúc em tôi vẽ xong đôi mắt Cụ, tôi nhẹ nhõm cả người. Nhưng em tôi thì lại gục xuống một lần nữa. Bọn lính vốc nước còn lại trong gầu tưới lên người em tôi. Nó dần hồi tỉnh. Lần này nó ngồi dậy đưa ngón tay chấm phá rất nhanh. Đến lúc bức tranh gần thành hình, em tôi chõi khuỷu tay trái, nghiêng người ra phía sau để ngắm rồi mới ngã vật ra. Bọn lính kêu lên:

- Nó chết giấc nữa rồi!

- Đổ nước nữa đi!

Nhưng lần này chúng tưới trọn một gầu nước mà em tôi vẫn không động đậy. Thằng Mônôry chạy tới cầm chéo áo em tôi giật giật mấy cái. Em tôi vẫn nằm im, mặt ngửa ra dưới ánh mặt trời mười hai giờ trưa. Thằng Tây cúi xuống sát mặt em tôi xem một lúc rồi đứng thưỡn dậy, lẩm bẩm:

- Chết rồi...

... Tôi cũng tính là em tôi phải chết chớ không thể nào sống đặng. Vì có bao nhiêu sức sống còn lại nó đã dốc ra hết. Nhưng tôi không khóc. Cái cảm giác đau đớn khi có đứa em ruột mình chết đi ở trong tôi bấy giờ mình như không cào cấu ruột gan tôi mạnh như trước. Thằng Mônôry thấy em tôi đã chết, nó đứng rũ ra một chốc. Nó không còn cái vẻ hống hách thường ngày của thằng xếp bót nữa. Nó đứng trước bức tranh rất lâu, nhìn những nét máu còn tươi rói trên tờ giấy... Anh ạ, bức tranh đó nói chung còn nhiều nét phụ chưa vẽ kịp, như râu tóc không vẽ được hết nét, bởi vì bao nhiêu nét đều phải dồn vào vẽ đôi mắt. Thiệt, đôi mắt của Cụ trong bức tranh ấy thì em tôi vẽ giỏi hơn tất cả những đôi mắt Cụ nó vẽ từ trước tới nay. Chỉ riêng nhìn đôi mắt không cũng có thể nhận ngay ra khuôn mặt nhân hậu của Cụ anh ạ... Trưa hôm đó, tôi đem xác em tôi về chôn...

Anh Bảy đang nói bỗng dừng lại. Không hiểu sao lúc ấy hai bàn tay tôi tự nhiên với ngoặc ra sau thân cột, run run rờ rẫm những vết rìu đẽo sần sùi trên gỗ. Và tôi hỏi:

- Còn bức tranh?

- Bức tranh thì sau đó thằng Mônôry cuộn lại đem về bót.

Tôi kêu lên:

- Nó lấy bức tranh à?

- Phải, nó lấy đem về... Tới cuối năm năm mươi thằng Mônôry sắp được về Tây. Nhưng số nó không đi khỏi nước mình đặng. Bót Hiệp Hưng bị bộ đội về đánh và thằng Mônôry chết trước một ngày nó lên đường đi Sài Gòn để về Tây. Anh em bộ đội lấy được trong buồng riêng của nó một cái va ly da. Trong va ly có nhiều bức tranh chính nó đã vẽ. Bức thì vẽ hình một chị phụ nữ lõa lồ đang oằm oại, bên dưới đề "Sau lúc hỏi cung", bức thì vẽ đồn bót cây cảnh ở Hiệp Hưng. Bức tranh Cụ của em tôi vẽ bằng máu tìm được trong góc va ly, đã cuộn lại, phía sau có ghi một dòng chữ Pháp. Anh Danh, chánh trị viên lúc trao bức tranh lại cho tôi đọc những câu văn nó ghi là: "Bức tranh này do một tù binh Việt Nam đã vẽ trong một hoàn cảnh hết sức khủng khiếp và kỳ quặc".

Anh Bảy phó chủ nhiệm thôi kể. Tôi được dịp thở ra một hơi. Anh Bảy đứng cầm lấy áo mặc vào và nói:

- Hồi đi tập kết tôi tính mang bức tranh theo nhưng bà con trong xã yêu cầu tôi để lại. Tôi đã nghe theo lời bà con mà để lại. Tiếc quá... nhưng thôi, để lại cho bà con mình ở trỏng thì có gì là đáng tiếc. Tôi cứ nghĩ sau này thống nhứt tìm lại bức tranh đó đưa vô bảo tàng thì quý lắm. Chắc chắn đến lúc đó bức tranh đã có ý nghĩa dài hơn cái ý nghĩa câu chuyện tôi vừa kể cho anh nghe nhiều lắm rồi.

872

Thứ Ba, 13 tháng 4, 2004