This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2005

Chuyện muỗi




Một anh muỗi đi xa vè tìm thăm anh bạn thân. Gặp anh ta đang ba hoa đấu láo với mọi người, lấy làm lạ hỏi:


- Này anh... Trước đây anh ít nói lắm mà sao bây giờ đổi tính vậy?


- Chẳng hiểu nữa... Từ khi tôi đốt nhằm một chánh khứa!

863

Thứ Ba, 13 tháng 12, 2005

Dàn hoa lý nhà tôi cũng sắp đổ




Một thầy đề chẳng biết làm sao bị vợ cào cấu sứt cả mặt. Khi đến công đường, quan huyện thấy, mới hỏi:


- Sao mặt thầy lại xây xát ra thế kia?


Thầy đề thưa:


- Bẩm chiều hôm qua, con ngồi chơi hóng mát, cái giàn hoa lý nó dổ xuống, xuýt nữa thì khốn!


Quan không tin, hỏi lại:


- Thầy dối tôi. Chắc hôm qua vợ thầy lại cào cho thầy đấy chứ gì? Thầy cứ nói thật đi rồi tôi sai mấy tên lính lệ lôi cổ ra đây trị thẳng tay. Nếu không thì được đằng chân lấn đằng đầu cho mà xem!


Quan bà đứng trong tư thất, nghe quan ông nói vậy, giận lắm, hầm hầm bước ra. Quan ông thấy bóng quan bà, líu cả lưỡi, bảo thầy đề:


- Thôi... thôi... thầy tạm lui. Giàn hoa lý nhà tôi cũng sắp đổ!

860

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2005

Sát sinh tội nặng lắm!



Một người đánh cá đem cá vào chợ bán. Có nhà sư trông thấy, bảo:


- Ngày nào ngươi cũng sát sinh, tội nặng lắm! Ðể nhà chùa làm lễ sám hối cho, có bằng lòng không?


Người đánh cá hỏi: - Sám hối thì phải thế nào?


Sư bảo: - Bán rẻ cá cho nhà chùa để nhà chùa phóng sinh, thả xuống ao.


Người đánh cá nói:


- Vâng! Nhưng xin nhà chùa cho mỗi con năm tiền, chứ kém không được.


Sư nói:


- Nam mô phật! Sao đắt thế! Xưa nay nhà chùa vẫn mua cá rán ở hàng cơm cũng chỉ có ba tiền một con, nữa là cá chưa rán.

856

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2005

Ghen bóng ghen gió




Một anh học trò có tính hay ghen muốn thử lòng vợ. Tối đến anh ta ngôi núp một xó, đợi vợ di qua thì chạy ra ôm chầm lấy. Vợ giật mình kêu lên. Anh ta mừng lắm, nói:


- Rõ thật phúc nhà mình. Ðược người vợ trinh tiết.


Một hôm, xem sử đến chỗ Tần Cối giết Nhạc Phi anh ta giận lắm, tay đang cầm cái chén, quăng xuống đất vỡ tan. Vợ thấy thế, nói:


- Cả nhà có mười cái chén, đập mất chín rồi, còn cái này lại đập nốt, lấy gì mà uống nước?


Anh ta nghe nói, trợn mắt quát to lên:


- À à! Mình bênh thằng Tần Cối à! Hay là mình đã thông dâm với nó?

853

Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2005

Rao làng



Ngày trước, dân ngụ cư là kẻ thấp kém nhất trong làng. Cho nên, đến Yên Lược, vừa dựng xong túp lều, Xiển bị bọn lý trưởng bắt ra làm mõ.

Một hôm, lý trưởng thấy một chị hàng bát ngồi ỉa ở cái bãi rậm đầu làng, liền bắt lấy gánh bát rồi sai Xiển đi mời "làng" ra đình chia phần. Xiển vâng vâng dạ dạ, vác mõ đi, cứ sau một hồi mõ "cốc cốc" lại rao:

- Chiềng làng chiềng chạ! lắng tai mà nge mõ rao: Cụ lý bắt được mụ hàng bát ỉa bậy đầu làng, mời "làng" mau ra đình mà chia phần!

Nghe nói chia phần, bao nhiêu chứ sắc, thân hào, vội vã kéo nhau ra đình. Ðến cổng đình, gặp Xiển, ai cũng nhao nhao hỏi:

- Chia phần gì thế mày?

- Con mẹ hàng bát ấy đâu rồi?

- Có nhiều không hả mày?

Xiển lễ phép đáp:

- Bẩm các cụ, con mẹ hàng bát ỉa bậy đầu làng. Dạ, nhiều lắm ạ, một đống to lù lù thế kia, có lẽ một cụ được đến vài ba bát chứ không ít đâu!

Vừa nói, Xiển vừa chỉ về phía hai cái sọt bát đang để ở hè đình.

875

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2005

Chia Tay



Sân trường bỗng hóa sân ga
Tiếng ve thay tiếng còi xa vọng về
Nón nghiêng che mái tóc thề
Đọng bao ánh mắt vụng về làm sao
Xa xa nón vẫy tay chào
Gần nghe câu hẹn biết bao nhiêu tình
Ngày nào nhộn nhịp học sinh
Giờ đây đứng lặng một mình trường ơi !
Áo ai vương chút bụi đời
Chia tay đôi mắt nói lời bâng quơ
Tuổi hồng vội nhặt vần thơ
Tặng cho cô bé "dại khờ" ngày xưa
Ve sầu ơi, có thấy chưa
Đi nhanh kẻo có kẻ thừa vu vơ
Chiều về ra ngõ ngẩn ngơ
Nhặt bao lá rụng vào thơ của mình...
802

Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2005

Đèn đỏ














Thưa các bạn, đôi khi giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau chừng một sợi tóc. Chẳng ai có thể biết nó rõ hơn tôi. Nhưng, nếu có ông bạn nào lại hỏi tôi trong trường hợp phải giết người thì sao? Điều ấy tôi thấy cần phải trả lời nước đôi như thế này: Cái đó còn tùy theo trạng huống.

Tôi cũng chẳng cần phải giấu giếm làm gì: tôi đã giết một người, và trong cái hoàn cảnh đặc biệt ấy, tôi tự nhận thấy tôi đã hành động đúng với tất cả sự logic.

Có điều khi nghĩ rằng mình có quyền giết hắn ta thì tôi đã hoàn toàn không tính gì đến những chuyện bất ngờ.

Dạo đó tôi là tùy viên tại sứ quán của nước tôi ở Luân Đôn. Tất nhiên, mười năm về trước tôi rất bô trai và lại to con. Tôi thường có thói quen đi coi hát vào mỗi tối thứ sáu và khi vãn tuồng, quay trở lại Queens Gate - tôi cư ngụ tại khu vực đó - rồi đi lòng vòng một tua.

Đêm Luân Đôn, không còn gì thoải mái hơn bằng cách thả bộ trên những đường phố rộng lớn và sạch sẽ. Trước khi trở về nhà, tôi không bao giờ quên ghé vào tửu quán Con ngựa điên, ở đó tôi có thể gặp đủ mọi hạng người vô công rồi nghề của cái thủ đô bốn mùa sương mù này. Tôi gọi một tách trà không phải cốt để uống mà chỉ để quan sát một cách thích thú những nhân vật điển hình Anh Cát Lợi đang ngồi trầm mặc trên quầy.

Một đêm kia, trong lúc đang ngồi uống trà, bất chợt tôi thấy hiện ra từ trong bóng tối một trong những người đàn bà lộng lẫy nhất mà trong đời tôi chưa bao giờ được gặp.

Với tư cách tùy viên sứ quán, tôi thường tiếp xúc với rất nhiều người đẹp: những vị phu nhân, những bà quận chúa, những ái nữ của các ông đại sứ thuộc đủ các quốc tịch, và đôi khi cả những nữ minh tinh nổi tiếng trên thế giới ; nhưng người đàn bà này lại có một nhan sắc cực kỳ, khiến cho trong giây phút tôi như ngây dại hẳn đi, và chỉ một chút xíu nữa, tôi đánh rơi tách trà xuống sàn.

Tuy trong lúc say mê điên dại, tôi cũng còn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng, hình như nàng đang có một tâm trạng thảng thốt.

Thỉnh thoảng nàng lại nhìn ngang ngó dọc, như thể sợ hãi một kẻ nào đang rình rập đâu đây. Khuôn mặt trái xoan của nàng nhợt nhạt. Đôi mắt màu tử thạch anh của nàng như có một vùng bóng tối che phủ. Những ngón tay trắng nõn nà của nàng run rẩy nâng cái ly lên.

Ví thử rằng tôi là dân Anh, có lẽ tôi cũng sẽ tỉnh bơ đi. Nhưng ác một nỗi tôi lại không phải là người Anh nên tôi không có hân hạnh để có được cái tính phớt tỉnh Ăng-lê như dân bản địa. Tôi không thể đành tâm nhìn một người đàn bà đẹp như thế gặp khó khăn. Thế là tôi lại gần nàng và lịch sự hỏi nàng xem tôi có thể giúp được gì.

Thoạt đầu, nàng tỏ vẻ sợ hãi, nhưng sau khi đã tự chủ, nàng cám ơn tôi về sự giúp đỡ ấy. Tôi khuyên nàng hãy cứ bình tĩnh uống trà, rồi sau đó hãy nói cho tôi biết điều gì đã khiến nàng lo ngại.

Trả tiền xong, chúng tôi đi ra phố. Với giọng nói run run, nàng kể cho tôi nghe câu chuyện của nàng. Nàng không thể nín lặng mãi được. Nàng hầu như đã kiệt sức và cần phải tìm chỗ bấu víu.

Đã có thời gian nàng sống ở Mỹ. Sẽ lãng phí giấy mực và thậm chí vô ích để kể lể dài dòng về cuộc tình của nàng với một thằng cha căng chú kiết nào đó ở trên cái mảnh đất mà cứ mươi mười lăm phút lại xảy ra một vụ án mạng ấy. Nó, phải, chính nó, sau khi vớ được nàng, đã bám chặt lấy nàng ; dù hết sức vùng vẫy, nàng cũng không thể sao thoát ra khỏi những cánh tay bạch tuộc của nó.

Nhưng rồi một dịp may đã đến, và người đàn bà trẻ đẹp kia đã tố cáo những hành vi tàn bạo của nó với nhà chức trách. Nó bị 7 năm tù và người đàn bà trốn sang nước Anh.

Chỉ có điều rằng nó đã thề sẽ giết nàng sau khi mãn hạn tù. Và nàng biết rằng đó không phải là những lời đe dọa suông ; nó nói và nó sẽ làm. Luật Vendetta (trả thù), nàng đã từng chứng kiến.

Đúng vào cái bữa tôi gặp nàng ở trong tửu quán Con ngựa điên thì nàng được tin nó tới Luân Đôn cùng hai đồng bọn.

Tôi giải thích cho nàng hay rằng, nước Anh không phải là nước Mỹ ; ở đây người ta không bao giờ cho phép những tên cùng hung cực ác ấy có thể làm mưa làm gió, muốn giết ai thì giết.

Nhưng nàng vẫn không tin.

- Dầu cho có trốn vào trong nhà tù Sing Sing, chúng nó cũng sẽ cố tình phạm một tội ác nào đấy, để vào tù rồi giết mình, nàng nói.

Nàng hoảng hốt thật sự và không dám trở về nhà. Nàng nói:

- Suốt ngày hôm nay, có hai tên lạ mặt canh chừng ở gần nhà em.

Thưa các bạn, tôi vừa xúc động vừa phẫn nộ. Như tôi đã nói ở trên, cách đây 10 năm, tôi hãy còn trẻ, hùng tâm tráng khí còn đầy, hễ thấy sự bất bằng là xắn tay áo lên, nhào vô can thiệp liền, huống hồ nạn nhân lại là một người đẹp.

Đầu óc tôi chợt nảy ra một ý nghĩ. Tôi bảo sẽ đưa nàng về văn phòng sứ quán của tôi ; nàng có thể tạm nghỉ ở đấy một đêm, trong phòng họp của chúng tôi và, sáng hôm sau, tôi sẽ trù liệu những biện pháp để bảo đảm an toàn cho nàng.

Sau một hồi tính toán, nàng đồng ý. Tôi gọi tắc xi đưa chúng tôi về sứ quán. Tôi mở cửa dẫn nàng vào. Tôi bật đèn ở phòng họp, kéo cái canapé ra phía trước lò sưởi điện. Và chính vào lúc tôi sắp sửa từ giã nàng thì sự việc xảy ra.

Lúc đó chúng tôi đang đứng ở giữa phòng. Chợt có một tiếng nổ chát chúa ; cửa kính ở cuối phòng vỡ tan ra từng mảnh và viên đạn nằm gọn ở trong tường. Cũng may nàng không hề hấn gì.

Không chậm trễ một giây, tôi tắt đèn và nắm tay nàng lôi thẳng một mạch ra khỏi sứ quán và, nhảy đại lên một cái tắc xi, đưa nàng tới nhà một người bà con của tôi.

Trong lúc ngồi trên xe, nàng nói:

- Anh thấy đó, vô ích thôi! Nó sẽ giết em! Bọn chúng nó sẽ không buông tha em đâu! Bữa nay nó bắn hụt, nhưng mai nó sẽ bắn trúng.

- Cô đừng có nghĩ quẩn, tôi đáp. Phải can đảm lên chứ! Bây giờ là an toàn một trăm phần trăm. Cô có biết cái tên khốn kiếp ấy ở đâu không? Nếu biết thì bảo tôi để tôi trị cho nó một trận.

Mới đầu nàng từ chối không cho tôi biết, nhưng khi đến nhà cô em tôi thì nàng cảm thấy hơi an tâm bèn nói:

- Nó ở khách sạn Phượng Hoàng, khu Picadilly, lầu 2, phòng số 15. Nhưng em van anh, đừng có tới đó làm gì! Nó nguy hiểm lắm, lại có thêm hai đứa nữa, mặt mũi giống như đười ươi.

Thà rằng nàng đừng tiết lộ địa chỉ của nó, tất nhiên tôi sẽ vô kế khả thi. Nhưng một khi đ859

Thứ Ba, 5 tháng 7, 2005

Tình Sông Nghiã Biển



Tôi viết những dòng này cho bạn bè để chia sẻ một nỗi niềm, cho con tôi và cho H. như một lời trần tình, và cho chính tôi như một lời trăn trối.

Cũng như tôi, đa số các bạn đã từng trải qua những ngày tù đày đói khổ trên cao-nguyên hay núi rừng Bắc Việt. Nhưng những đau đớn thể xác đó không thể so-sánh được với niềm thống khổ mà tôi đã trải qua. Một năm sau ngày tôi bị cưỡng bách học tập cải tạo, nhà tôi mang đứa con chưa đầy năm tuổi vượt biên. Vợ con tôi được một tầu Hoà Lan cứu vớt và định cư tại xứ tự do này. Mười bốn năm tù đầy là mười bốn năm hy-vọng, vì qua em gái tôi, tôi được biết rằng vợ con tôi đã có một đời sống yên lành.

Ngày tôi trở về thành phố cũng là ngày xót xa nhất cuộc đời, còn hơn cả lúc tôi lên xe đi cải tạo. Em gái tôi ngập ngừng cho tôi biết là vợ tôi đã sống chung với một người khác. Những lá thư cuối cùng H. viết về em tôi đã giấu kín vì sợ rằng tôi không chịu được thêm niềm đau tinh thần trong lúc tù đày.

"Trăm nghìn lạy anh, xin anh tha thứ và quên đi người đàn bà không xứng đáng … ".

Tôi vò nát lá thư, đau và tủi, nhưng không có nước mắt để khóc cho mình, cho đời!

Nhưng niềm đau nào rồi cũng nguôi ngoai. Tôi vẫn còn đứa con mà 15 năm tôi chưa gập mặt. Tôi viết thư cho người vợ cũ, chúc H. hạnh phúc và cám ơn H. đã thay tôi nuôi nấng con nên người.

Năm 1991, sau khi đã định cư ở Hoa-Kỳ, tôi lại nhận được thư H.. H. nhắc tới tình yêu đầu đời, êm như dòng sông nhỏ nơi quê nàng, và xin gập tôi một lần: "Một lần với anh, rồi để tuỳ anh, em bao giờ cũng như dòng sông cũ".

Lòng tôi chùng xuống và tôi háo hức mong ngày tái ngộ như thủa mới yêu nhau. Mùa hè năm ấy, H. gọi tôi từ một góc phố, hỏi đường đến căn phòng trọ tôi chia sẻ với người bạn cùng cảnh ngộ. Tôi run-rẫy chải lại mái tóc đã điểm sương để đón H. và thấy mình lúng túng như thủa hai mươi, khi mới biết yêu lần đầu.

Đêm đó H. kể với tôi nổi cô đơn và thống khổ vô-tận của người đàn bà với đứa con nhỏ trên xứ lạ. Từ con sông hiền-hoà, dòng đời đã đưa H. ra biển, và X., một sinh viên du-học, thông dịch viên trong phái đoàn cứu trợ, là cái phao cho H. bám víu, chịu ơn nghĩa, nuôi con và nuôi chồng trong tù.

"Chúng mình sống với nhau được mấy năm, anh thường đi xa, và cuối cùng đi biền biệt, không biết ngày về. Em lúc nào cũng thương nhớ anh, Nhưng X. cho em và con đời sống. Hơn 10 năm nay X. quanh quẩn bên em, tha-thiết và dịu dàng, đưa con đến trường ngày bé dại, đón em những chiều mưa, và hôm qua cặm cụi xếp quần áo cho em sang thăm anh. Đưa em ra phi-trường, X. không nói, chỉ cầm tay, nhưng ánh mắt co trăm điều gửi gấm. Trăm nghìn lạy anh, anh quyết-định sao em cũng chịu. Em không thể nào trọn cả nghĩa lẫn tình."

Tôi ứa nước mắt vì bồi hồi. Trong tù, tôi đau khổ, nhưng tôi không bao giờ cô đơn. Tôi có bạn bè xung quanh, có cái điếu cầy và những cơn say choáng váng đủ để lãng quên đời. Tôi đã may mắn hơn vợ tôi nhiều mà tôi không biết. Lúc đó tôi mới thấy thương nàng, và thương cả X.. Tình yêu của chúng tôi như dòng sông, nhưng X. tới với H. bằng tấm lòng của biển.

"Em nên về bên đó. Con đã trưởng thành và anh cũng đã yên phận. X. cần có em hơn là anh. Cho anh gửi lời cám-ơn."

H. khóc, nhưng trong niềm đau như có cái gì rất an-ủi.

Mùa đông năm ấy con gái tôi cũng qua thăm. Cháu hầu như không nói được tiếng Việt mà tiếng Anh của tôi lúc đó còn rất kém. Người bạn giúp đỡ mỗi lần cha con tôi lúng túng. Tôi tuy nói rất ít nhưng cháu Âu Cơ hình như hiểu rất nhiều. Cháu gọi 'Bố' rất rõ ràng, và trước khi trở về Hoà Lan, cháu mua một chậu hoa hồng, trồng ở đầu hè:

"So you know that I'm around, and that I love you".

Tâm hồn tôi bây giờ rất bình yên. Lâu lâu tôi lên chùa Từ Sơn nói chuyện 'thiền' với thầy Đức. Một mai tôi ra đi, xin các bạn hoả táng tôi và rắc tro ngoài biển. Gió sẽ đưa tôi về bên kia đại-dương:

Tro tàn theo dấu cố hương
Hồn theo ngọn sóng về đường biển xưa.

Như các bạn đã biết, quê tôi ở ven sông Hồng. Lúc đó tôi thật sự vẹn cả 'Tình Sông Nghĩa Biển'.

Trần Quang Thiệu
April 2001

Phụ chú: Nhân vật chính trong câu chuyện này, anh Đ.V.M., đã qua đời vì ung thư phổi, năm 2006 tại California. Anh yêu cầu được hoả táng và mang tro tàn về quê hương, an táng cạnh mộ phần cha mẹ, thay vì trải ngoài biển như anh từng ước mong trước đây. Bạn bè đã làm tất cả những gì anh trăn trối, và người vợ củ cũng từ Âu Châu sang để tang anh.



 

842

Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2005

Ðịnh Nghĩa Tình Yêu






Buổi ăn trưa ngày hôm sau họ được thưởng thức những món ăn ngon như tôm tích, bánh mì salad, v.v. Trong khi đang dùng bữa thì ông Ninh, người đầu bếp, đi lên cầu thang và hỏi họ muốn dùng gì cho bữa chiều. Ông ta là một người có kích thước trung bình, má phệ và mắt hí. Bộ râu được cạo nhẵn cáo chỉ. Hàm râu như bị nhổ từng sợi một thay vì cạo.

Kim bắt đầu kể cho những người khách biết là cô Nga đã thương ông đầu bếp này. Nhưng dù sao cô nàng vẫn không chịu lấy ông ta vì ông ta là một người say rượu và hay gở. Tuy vậy, cô sẵn sàng đồng ý để "sống chung với ông" Ngược lại, ông ta là một người đạo đức, đạo của ông không cho phép ông "chỉ sống chung với nàng." Một là cô nàng cưới ông, còn không thì ông không cần. Ông chửi cô và đánh đập cô. Cô phải núp trên lầu, khóc lóc một mình, mỗi khi ông uống rượu say. Kim và những người làm của anh ta thường hay phải ở nhà để bảo vệ cô.

Câu chuyện bắt đầu chuyển đề tài qua tình yêu.

"Cái gì làm cho người ta yêu nhau?" Kim hỏi. "Tại sao Nga không thương một người khác, một người giỏi hơn và đẹp trai hơn? Một người xứng với cô hơn? Tại sao cô ta phải thương ông Ninh--"ông mặt bự" như mọi người hay gọi ông--khi biết rằng hạnh phúc cá nhân của cô là yếu tố rất quan trọng trong tình yêu? Ðiều này quả thật là huyền bí và có nhiều cách giải thích. Qua Kinh Thánh, chúng ta đã từng được nghe định nghĩa đích thực của tình yêu: 'Ðấy là một sự huyền bí.' Ngoài ra, những bài viết hay những câu nói khác đều không làm chúng ta thỏa mãn về ý nghĩa chân chính của nó. Chúng nó có thể định nghĩa được tình yêu trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác nhưng không thể nào giải được ý nghĩa của nó trong mọi hoàn cảnh. Nếu mà như vậy thì chúng ta nên định nghĩa tình yêu trong từng hoàn cảnh một, thay vì đi tìm một ý nghĩa đích thực, chung cho mọi hoàn cảnh. Chúng ta cần phải phân tách từng hoàn cảnh một, như các bác sĩ thường hay nói."

"Rất đúng" Ban đồng ý

"Những người dân Nga thường hay bị phiền phức về những bài toán nhức óc này. Trong khi người ta choàng lên tình yêu của họ những đóa hồng, những hạt kim cương thì chúng ta, những người Nga, lại choàng lên nó những nghi vấn và những thắc mắc mà hầu như không bao giờ giải đáp được. Khi tôi còn là một sinh viên ở Mát-Cơ-Va, tôi có một người 'bạn': một người con gái dễ thương. Mỗi lần khi tôi ôm nàng trong lòng, tôi luôn tự hỏi mình: tiền lương hàng tháng mình cần đưa cho nàng bao nhiêu và bây giờ bao nhiêu tiền một cân thịt bò. Ðừng chế tôi, chúng ta đều giống nhau cả. Một khi chúng ta rơi vào biển tình, chúng ta luôn luôn thắc mắc, nghi nghờ, và hay tự đặt câu hỏi cho chính mình. Chúng ta chân thành hay giả giối? Thông minh hay ngu dốt? Cái tình yêu này, nó sẽ có kết cục ra sao? Vân vân và vân vân. Tôi không biết cảm tưởng như vậy là đúng hay sai, nhưng nó rất phiền phức. Nó có mang lại sự thỏa mãn và tức giận hay không, cái đó tôi không biết."

Hình như anh ta có một câu chuyện đang muốn kể. Những người sống một mình thường hay có tâm sự trong lòng mà họ rất muốn thổ lộ. Những người chưa lập gia đình thường hay lui tới những buồng tắm công cộng, những nhà hàng trong phố, để mà nói, và đôi khi họ kể những câu chuyện lý thú, hấp dẫn thu hút cả những người bồi bàn và công nhân làm việc trong phòng tắm. Những người sống ngoài thành phố thì thường trao gởi bầu tâm sự của họ cho bạn bè và khách khứa. Qua cửa xổ, mây đen phủ kín bầu trời, những hạt mưa bao trùm không gian và cây cối.

Tôi đã từng sống và làm ruộng ở vùng Sông-Phi-Nô này, tôi bắt đầu làm việc ở đây sau khi học xong đại học (Kim bắt đầu). Tôi được lớn lên một cách thoải mái, không phải làm gì, chỉ phải học. Vì việc học của tôi mà ba tôi đã phải nợ đầy mình. Ông phải dùng ruộng vườn của mình làm của thế chân để mượn tiền cho tôi đi học. Sau khi học xong, tôi quyết định ở lại trên mảnh ruộng của ba tôi để làm việc cho tới khi nào trả hết nợ. Tôi đã quyết định như vậy và bắt đầu làm việc, tuy rằng vẫn có chút tiếc rẻ trong đó. Ðất đai trong vùng này không được màu mỡ cho lắm. Nếu muốn lời, một là mình phải mướn thêm tay làm hai là phải tự mình nai lưng ra mà làm; không còn cách trọn lựa thứ ba. Tôi gom góp những người trong làng lại, đàn ông cũng như đ àn bà, để làm việc cho tôi. Chúng tôi không để yên một mảnh đất nào, chúng tôi làm việc quần quật như trâu. Tôi cũng tự mình xới đất, tự gieo hạt, và gặt lúa. Lưng quằn lên vì vất vả trong khi môi phệ ra vì chán nản. Cả mình tôi đau nhức còn chân tôi thì liệt đi như muốn chết. Lúc đầu tôi tưởng là mình có thể dùng những gì học hỏi được ở trường lớp để đỡ nhọc nhằn. Tôi tưởng rằng chỉ cần tạo cho mình một thời khóa biểu và làm việc theo nó thì mọi việc sẽ đâu vào đấy. Tôi dọn lên ở phòng tốt nhất trên lầu; xắp xếp để café và rượu được dọn lên mỗi bữa ăn trưa, chiều; và đọc báo "Thời Sự Âu Châu" mỗi một đêm trước khi đi ngủ. Nhưng mục sư Văn, người linh hướng của làng chúng tôi, một hôm đến thăm và đã nuốt hết những bầu rượu thơm của tôi. Còn con gái ông ta thì công về hết tất cả những tờ "Thời Sự Âu Châu". Tôi cũng không buồn. Tôi không cần những tờ báo đó vì từ khi bắt đầu công việc đồng áng, tôi chưa tối nào được đặt lưng trên giường mình. Nhất là trong những tháng cắt mạ, tôi thường ngủ trong chuồng bò hay trong túp lều của anh đốn củi. Dần dần tôi dọn phòng ngủ của tôi xuống dưới lầu để ngủ chung với những người làm mướn. Tôi cũng chẳng còn cái gì yêu quí cả ngoại trừ những người này, những người trước kia đã làm công cho ba tôi và bây giờ lại làm cho tôi, những người mà tôi không bao giờ và không thể nào xua đuổi cho dù mai này có thế nào đi chăng nữa.

Trong những năm đầu tiên sống ở đây, tôi đã được trọn làm giám thị. Vì vậy nên tôi hay ra tỉnh để để làm việc và hay tham gia vào những vụ xử kiện trên đó. Ðiều này làm tôi rất thích. Một khi đã bị gò bó suốt mấy tháng trời trong nông trại, nhất là vào mùa đông, thì không có gì mong muốn cho bằng được khoác chiếc áo choàng thâm của mình. Khi làm việc trên tỉnh, tôi cần phải có áo choàng thâm, đồng phục, và áo đuôi dài. Toàn là những luật sư và những người có học trên đó. Họ là những người mà tôi có thể nói chuyện với một cách dễ dàng.

Tôi lúc nào cũng được hoan nghêng trên tỉnh. Tôi rất thích làm quen với những người bạn mới. Trong số bạn mới của tôi, anh chàng đứng đắn nhất--và, thật tình, đáng mến nhất--là anh Lữ, phó giám đốc tỉnh. Hai bạn chắc cũng đã biết anh ta: một con người... quả nhiên là một nhân vật rất quyến rũ. Tôi được gặp anh ta trong một vụ án về hỏa hoạn rất nổi tiếng. Vụ án được xử trong hai ngày liên tiếp. Khi kết thúc, mọi người đều mệt rã cả người. Anh Lữ nhìn về phía tôi:

"Hay là tới nhà tôi ăn cơm chiều nha" anh mời

Tôi rất là ngạc nhiên, tôi vừa mới biết anh ta, mà lại, chúng tôi chỉ quen nhau qua việc làm mà thôi. Tôi chưa bao giờ tới nhà anh ta cả. Sau khi trở lại khách sạn để tắm rửa, tôi tới nhà anh. Buổi cơm chiều đã mở đường cho tôi gặp An, vợ anh Lữ. Nàng còn rất trẻ, hai mươi hai tuổi là cùng, đứa con đầu lòng của nàng mới trào đời cách đây chưa đầy sáu tháng. Chuyện này đã sảy ra qua lâu rồi, tôi không còn nhớ rõ, hay nói một cách khác, khó mà giải thích được ngay lúc đó điều gì về nàng đã mê hoặc tôi đến thế. Nhưng khi ngồi vào bàn ăn, tôi đã hiểu rõ. Tôi thấy nàng, một người đàn bà trẻ, đẹp, hiền lành, thông minh và hấp dẫn--không như bất kỳ một cô gái nào mà tôi đã gặp trước đây. Ngay lập tức, tôi cảm thấy nàng thật là ngần gủi, tôi có cảm tưởng như mình đã quen nàng từ lâu--tôi tưởng như đã gặp khuôn mặt ấy, cặp mắt khêu gợi và sáng sủa ấy khi tôi còn là một đứa bé đang mở nhìn trộm những cuốn an-bum trong ngăn tủ mẹ tôi.

Trong vụ án hỏa hoạn, bốn người Do-Thái bị kết án khủng bố--tôi hết sức không bằng lòng với phán quyết này của tòa án. Tôi không thể ngồi yên khi dùng bữa--nói thật, tôi rất bực mình--tôi không còn nhớ mình đã nói gì trong bữa đó, tôi chỉ nhớ thấy An cứ lắc đầu và nói với chồng mình "Em không thể nào tin được anh ạ"

Lữ là một người tốt, tuy rằng hơi ngây thơ một tý. Anh ta nghĩ rằng những gì quan tòa phán quyết đều là đúng, nếu muốn kháng án, người ta cần phải làm đầy đủ những thủ tục, hồ sơ cần thiết, và nộp lên những nơi chính đáng đã quy định theo luật pháp--bàn ăn, theo anh, không phải là một trong những chỗ đó.

"Em và anh đâu có nổ lửa đốt nhà đâu" anh nói nhỏ nhẹ "anh và em đâu có bị kết án và giam tù"

Cả hai vợ chồng họ cố mời và ép đồ ăn cho tôi. Qua những khía cạnh mà tôi theo dõi--cách mà họ bắc café chung với nhau, cách mà họ hiểu nhau trước khi mở miệng--tôi kết luận rằng, họ đang sống trong cảnh hòa bình và êm ấm, họ rất vui khi được tiếp đón và làm vui lòng một người khách trong nhà họ. Sau cơm chiều, chúng tôi chơi pi-a-nô. Khi màn đêm bắt đầu kéo, tôi xin phép họ để trở về khách sạn.

Câu chuyện vừa rồi sảy ra vào đầu mùa xuân, sau khi đó, tôi rời tỉnh để trở về nông trại của tôi ở Sông-Phi-Nô. Tôi ở đó suốt mùa hè. Tôi hết sức bận rộn nên không còn thì giờ nghĩ đến những việc trên tỉnh. Nhưng ngày nào tôi cũng đều bị ám ảnh bởi hình dáng của người con gái tha thướt, yêu kiều đó. Nàng đã in lên tâm trí tôi một cái bóng phất phơ, nhỏ nhẹ.

Vào cuối mùa thu, một chương trình ca vũ từ thiện được tổ chức trên tỉnh. Tôi được mời ngồi chung với ông thống đốc. Khi tôi bước vào, An và Lữ đã ngồi đó, bên cạnh bà vợ ông thống đốc. Một lần nữa, con người tôi lại bị choáng váng bởi nét đẹp kiều diễm đầy khuyến rũ, bởi đôi mắt kêu mời, tran trứa tình bạn của nàng. Và một lần nữa, tôi cảm thấy như đang chia sẻ với nàng một cái gì đó rất mật thiết và gần gũi.

Tôi ngồi xuống bên cạnh nàng. Nàng quan sát rằng tôi có phần nào gầy hơn trước. Tôi có bị ốm không?

"Cám ơn, vai tôi thường hay bị nhức. Nó hành tôi rất khó ngủ nhất là vào mùa mưa"

"Nhìn anh có vẻ bệ rạc quá. Khi anh dùng bữa chung với chúng tôi mùa xuân rồi, nhìn anh còn trẻ và tự tin lắm mà. Lúc đó anh còn nói nhiều, còn pha trò, còn quậy nữa mà. Quả nhiên lúc đó anh thật là hấp dẫn. Ngay lúc ấy, một phần nào đó, tôi đã bị anh mê hoặc. Không biết tại sao suốt mùa hè qua, lâu lâu tôi lại liên tưởng đến anh. Khi tôi chuẩn bị để đi coi hát, tôi biết chắc rằng thế nào cũng gặp anh."

Nàng cười. "Nhưng hôm nay nhìn anh bệ rạc quá," nàng lập lại. "Nhìn anh trông già hẳn đi"

Ngày hôm sau, tôi dùng cơm trưa tại nhà Lữ. Sau bữa cơm, họ mời tôi ra thăm căn nhà nghỉ mát của họ. Tôi đi với họ, tôi về với họ, và vào nửa đêm tôi uống trà với họ trong không khí yên tỉnh của mái nhà họ: bên cạnh lò lửa đang bừng cháy, nóng hổi, với người mẹ trẻ lâu lâu lại đi ra đi vào để trông giấc ngủ cho con. Sau ngày hôm đó, khi nào có dịp lên tỉnh là tôi ghé thăm Lữ. Càng ngày chúng tôi càng thân hơn, đôi khi tôi tới nhà anh ta bất chợt, không cần nói trước. Họ xem tôi như một thành viên trong nhà.

"Ai vậy?" giọng nàng vọng ra từ cuối nhà, ngân nga, đầy khuyến rủ.

"Ông Kim" người giúp việc trả lời, và An xuất hiện với nét mặt đầy lo lắng. Tại sao tôi không đến thăm nàng sớm hơn? Chuyện gì đã xảy ra?

Cái nhìn của nàng, cái vòng tay nõn nà, xinh xắn, bộ đồ nàng mặc trong nhà, cách làm tóc của nàng, giọng nói, tiếng bước chân của nàng... lúc nào cũng làm cho tôi có cảm tưởng như một cái gì đó mới mẻ, bất thường, một cái gì đó quan trọng đang xảy đến với tôi. Chúng tôi thường có những buổi nói chuyện thật dài--và cũng có những lúc im lặng thật lâu, mỗi một người như bị cuộn lại trong suy tư của mình. Những lúc không có ai ở nhà, tôi thường ngồi đợi, nói chuyện với người vú, chơi với đứa nhỏ, hay duỗi chân trên cái ghế bành để đọc một tờ báo. Khi An về, tôi chạy ra gặp nàng ở hành lang và giúp nàng mang hàng mới mua vào. Tôi bê những hàng hóa đó một cách trìu mến và hảnh diện--như một đứa bé mới biết bê đồ lần đầu.

Lữ và những người khác trong gia đình không hề để ý, họ chẳng bao giờ làm phiền tôi. Họ tiếp tục tiếp đón tôi. Nếu lâu không thấy tôi lên tỉnh thì hai vợ chồng lại sốt ruột, lo lắng. Nhất định là tôi bị ốm hay có chuyện gì không may xảy đến với tôi. Cái mà làm cho họ lo lắng nhất là tôi, một người có học, biết nhiều thứ tiếng, lại không ở trong văn phòng mà sống ở ngoại ô, suốt ngày quấn quít với máy say bột và những thửa ruông cằn cỗi. Họ nghĩ rằng tôi không bao giờ hạnh phúc, những lúc tôi cười nói trong bữa ăn chỉ là để che đậy tâm hồn đau khổ của tôi. Cả những khi tôi thật sự hạnh phúc và thoải mái, họ vẫn nhìn tôi với ánh mắt đầy lo lắng. Những khi tôi bị kẹt, chủ nợ đòi tiền hay không có tiền chi tiêu hàng tháng, hai vợ chồng hay thầm thì với nhau. Sau đó, anh chồng thường đi tới bên cạnh tôi với một ngương mặt trịnh trọng.

"Nếu anh có hơi bị thiếu, Kim, vợ chồng tôi sẵn sàng giúp một tay. Anh đừng gại." Hai tai anh ta đỏ ngầu vì mắc cỡ.

Hay là có khi anh đến bên tôi, hai tai đỏ ngầu sau khi nói chuyện với vợ, và thuật lại với tôi rằng vợ anh "hết lòng muốn tôi nhận một chút quà này." Sau khi nói xong anh ta thường đưa cho tôi một số đinh tán, hộp thuốc lá, hay một cái đèn điện. Ðể trả ơn, tôi thường hay biếu họ những món quà từ vùng ngoại ô như một con chim non, bơ, hoa... Cả hai vợ chồng hình như đều có tiền riêng. Tôi vẫn hay mượn tiền của người khác, không cần biết là của ai hay bao nhiêu--tôi mượn ở bất kỳ chỗ nào cho phép. Nhưng mà không có một mãnh lực nào có thể bắt tôi xoè tay mượn tiền của gia đình Lữ được. Cần tôi giải thích thêm không?

Tôi buồn. Ở nhà, trên đồng áng, hay trong chuồng bò tôi luôn nghĩ đến nàng. Tôi có gắng tìm hiểu sự kỳ bí của người con gái trẻ, đẹp và thông minh ấy, người vợ của một ông chồng xấu, đứng tuổi, và người mẹ của những đứa con anh ta. Tôi cũng cố gắng tìm hiểu sự kỳ bí của người chồng này, một anh chàng thiếu nhan sắc, tốt tính, dễ dãi, với những cách nhìn ngây thơ và vớ vẩn, người mà mỗi khi đi dự tiệc thường hay dạy đời người ta... còn người mà vẫn còn tin tưởng là mình có quyền để được hạnh phúc và có quyền để làm chồng nàng. Tai sao, tôi vẫn nghĩ, nàng không gặp tôi trước hắn? Vì mục đích gì mà lại có sự sai lầm đến thế?

Những lần lên tỉnh, qua ánh mắt của nàng, tôi biết rằng nàng đang đợi tôi, có lần nàng thú nhận với tôi là trước khi tôi đến, nàng thường hay có những cảm giác rất kỳ lạ--giống như nàng đã biết trước thế nào tôi cũng tới. Chúng tôi tiếp tục những buổi nói chuyện, xen lẫn với những phút thinh lặng thật dài, không ai giám nói lên tình yêu của mình nhưng giấu kỹ một cách sợ sệt và ghen ghét. Chúng tôi sợ, sợ tất cả những gì có thể bộc lộ ra cái bí mật ấy. Mặc dù cái tình yêu mềm mại đó đã cắm rễ quá sâu trong lòng, tôi luôn cố gắng để cho đầu óc sáng suốt, xét đoán xem những giông tố nào có thể xảy ra nếu chúng tôi không có đủ nghị lực để kềm chế chính mình. Tôi không thể nào hình dung ra được, hay nói đúng hơn, không muốn tin rằng một tình yêu thầm kín, cô đơn như của tôi, lại có thể bỗng nhiên và thô bạo phá tan cuộc đời ấm cúng của người chồng và những đứa con; lật úp luôn cả căn nhà mà tôi vẫn mãi yêu thương và tin tưởng. Ðây có phải là thái độ của một người đàn ông đứng đắn không? Nàng sẽ đi với tôi--nhưng mà... đi đâu? Tôi có thể dẫn nàng đi đâu? Mọi việc sẽ khác hẳn nếu như tôi là một người đàn ông lãng mạn và có tiền, nếu như tôi là một quân nhân anh dũng đang chiến đấu cho lý tưởng tự do của nhân loại, hay nếu như tôi là một người ca nghệ sĩ nổi tiếng được nhiều người thán phục. Nhưng tôi chỉ là một người nông dân nghèo. Tôi chỉ có thể đưa nàng từ cuộc sống bạc bẽo này đến cuộc đời bạc bẽo khác, hay còn tồi tệ hơn thế nữa. Hạnh phúc của chúng tôi sẽ kéo dài được bao lâu? Nếu không may tôi chết đi thì nàng sẽ làm sao? Còn nếu như chúng tôi không yêu nhau nữa? Và còn......v.v.

Nàng cũng nghĩ như tôi. Nàng nghĩ đến chồng nàng, con nàng, mẹ nàng, người mà thương yêu chồng nàng như con ruột. Nếu nàng nghe theo cảm súc của mình thì một là nàng phải nó dối hai là nói sự thật, nhưng cả hai đều khó khăn và nguy hiểm cho nàng trong hoàn cảnh này. Nàng suy tư trong đau khổ: tình yêu của nàng sẽ mang lại cho tôi hạnh phúc không? Có làm cho đời sống của tôi thêm phiền phức không? Có làm cho nó tẻ nhạt và đầy sóng gió không? Nàng cảm thấy nàng quá già đối với tôi, nàng không còn đủ sức và nghị lực để bắt đầu lại một cuộc sống mới. Nàng thường nói với chồng nàng là tôi cần phải cưới một người con gái hiền lành, thông minh, một người nội chợ và giúp việc tốt--nhưng theo nàng thì hầu như không có người con gái nào như vậy trên tỉnh (chỉ trừ nàng).

Trong khi đó, năm tháng lại tiếp tục trôi đi. Bây giờ An đã có hai con. Mỗi khi tôi tới thăm gia đình, người làm công vẫn cười nói với tôi, mấy đứa trẻ thì bám víu lấy chú Kim của chúng, la hét lên vì vui mừng, và mọi người đều vui vẻ. Không hiểu được nỗi lòng thầm kín của tôi, họ tường rằng tôi cũng đang vui với họ. Họ coi tôi như là sự hiện thân của lòng chính trực. Người lớn cũng thế mà con nít cũng vậy, họ tưởng rằng sự chính trực đang đi giữa họ--sự quan hệ giữa tôi và họ làm cho cuộc đời họ tinh khiết và mỹ miều hơn. An và tôi vẫn hay đi coi hát chung với nhau. Chúng tôi ngồi cạnh nhau, vai liền vai, tôi nhẹ nhàng lấy cặp mắt kiếng của nàng, ý thức rằng nàng đang ở cạnh tôi, tưởng tượng như nàng là của tôi, chúng tôi không thể nào sống xót nếu như bị chia rẽ. Nhưng lần nào cũng vậy, sau khi màn biểu diễn kết thúc, chúng tôi ngượng nghịu chia tay nhau, ra đi như những người xa la. Không biết người nói gì về chúng tôi trên tỉnh, nhưng không một câu nào của họ là đúng cả.

Trong những năm vừa rồi, An về thăm mẹ và em nhiều hơn. Nàng hay buồn rầu và chán nản: tâm trạng của nàng làm nàng ý thức được rằng cuộc sống của nàng chưa đầy đủ và thiếu ý nghĩa. Những khi đó nàng thường lánh mặt chồng và con cái. Cái tình trạng này kéo dài và nặng hơn, bắt buộc nàng phải điều trị về bệnh tâm lý.

Mặc dù vậy chúng tôi vẫn giấu kín những gì mình muốn nói. Những lúc gặp mặt, nàng hay tức tối với tôi một cách kỳ lạ. Nàng chống đối tôi trên mọi phương diện; nếu tôi có bàn luận hay cãi nhau với một người khác, nàng lập tức đứng về phe của họ. Nếu không may tôi làm rơi một vật gì, nàng nhìn tôi và nói một cánh lạnh nhạt "hay quá ha." Mỗi khi tôi quên mang kính đi xem hát, nàng cho tôi biết rằng nàng đã biết trước thế nào tôi cũng quên.

Hên hay xui, bất kỳ cái gì trong cuộc đời chúng ta, không sớm thì chiều, cũng phải kết thúc. Bây giờ đã đến lúc chúng tôi phải chia tay nhau: Lữ đã kiếm được việc làm tốt hơn ở miền tây. Họ bán tất cả: nhà, bàn ghế, và ngựa. Lái xe ra khỏi nhà, khi chúng tôi ngoẳnh mặt nhìn lại lần cuối góc vườn xinh xắn với mái ngói phủ đầy giây leo, mọi người đều cảm thấy buồn, còn tôi... tôi biết đã đến lúc phải ra đi, bỏ lại không chỉ một căn nhà bé nhỏ. Chúng tôi đã quyết định để An tới Ki-Mi-A trước và Lữ sẽ mang các con tới sau.

Một đoàn người chúng tôi tới ga xe lửa để tiễn chân An. An đã chào tạm biệt chồng nàng và các con... xe lửa bắt đầu chuyển bánh... thì... tôi vút nhanh lên khoang tầu của nàng, đặt lên đồ đạc cái rổ mà tí nữa nàng đã quên. Bây giờ đến lượt tôi chào tạm biệt. Cặp mắt chúng tôi gặp nhau trên khoang tầu, và chúng tôi không thể kiềm chế được nữa. Tôi ôm choàng lấy nàng, nàng ấp mặt vào ngực tôi, và nước mắt bắt đầu chảy. Hôn mặt nàng, hôn vai nàng, hôn đôi tay xinh xắn chứa đầy nước mắt--hai chúng tôi quả thực quá hạnh phúc--tôi bày tỏ tình yêu của tôi cho nàng. Với nỗi thống khổ bừng cháy trong tim... tôi thấy những gì đã cản trở tình yêu chúng tôi, những gì đã bóp ghẹt tình yêu của chúng tôi bấy lâu, quá sức là nhỏ bé, tầm thường và hão huyền. Tôi ý thức được rằng, một khi tôi yêu, tôi cần đặt định nghĩa tình yêu của tôi trên một cái gì đó cao thương và quan trọng hơn là hạnh phúc hay đau khổ, tội lỗi hay trong sạch: những ý nghĩ tầm thường mà mọi người vẫn đắn đo một khi yêu. Nếu không được như vậy, thì thà rằng chúng ta đừng định nghĩa tình yêu thì hơn.

Tôi hôn nàng lần cuối, nắm chặt tay nàng, và rồi chúng tôi chia cách--mãi mãi. Xe đang chạy. Tôi ngồi xuống khoang bên cạnh, trống rỗng... ngồi đó và khóc cho tới khi xe dừng lại ở trạm kế tiếp. Tôi quốc bộ về Sông-Phi-Nô.

Trời đã tạnh trong khi Kim đang kể chuyện, mặt trời đã ló rạng. Ban và Văn rời chỗ ngồi ra lan can. Trước mặt họ là vẽ lộng lẫy của khu vườn, và ánh sáng lấp lánh của dòng sông trong những tia nắng mặt trời. Lòng họ say mê trước cảnh vật nhưng cũng không quên hối tiếc cho người đàn ông với cặp mắt hiền lành và trong sáng ấy--người mà trong giờ qua đã bầy tỏ cho họ những tâm tư thầm kín và chân thành nhất--con người mà cuộc đời ngày qua ngày vẫn tiếp tục xoay quanh mảnh ruộng và cối xay gạo, vẫn tiếp tục nghèo khổ mà không làm gì để tiến lên được. Họ cũng liên tưởng đến sự thống khổ của nàng khi anh ta phải chia tay nàng trên khoang tàu, đặt lên vai và trán nàng những nụ hôn nồng cháy. Họ đã gặp nàng một vài lần trên tỉnh. Ban là bạn thân của nàng và biết rằng nàng rất đẹp.834

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2005

Chiều Thứ Bảy



Bất chợt em ngẩn ngơ nhìn
Một chiều thứ bảy im lìm đi qua
Lối đi không có cánh hoa
Không lời ru nhẹ như là trong thơ
Bên em ai đến bây giờ
Để cho em bước thẫn thờ chiều nay
Ngẩng nhìn một chút mây bay
Mây như có bạn nắm tay hẹn hò
Bắt đầu rồi đó âu lo
Nỗi buồn con gái vẩn vơ nhẹ nhàng
Rồi chiều thứ bảy mênh mang
Sẽ đem em đến cung đàn mộng mơ...
805

Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2005

Con Đường Hoa Sữa



Em bảo hoa sữa thơm
Hương sắc đến cổng trường
Sáng sáng mình đi học
Cùng hoa sữa chung đường.

Áo em đón hương rơi
Cài lên tóc nụ đời
Sáng sáng mình đi học
Nhìn theo, hoa sữa cười

Hà Nội vào mùa sương
Hoa sữa nhạt dần hương
Con đường hoa sữa vắng
Vì thiếu bước chân thương.

Em đi học trường khác
Đường hoa sấu, hoa me
Hoa sữa ơi đừng khóc
Kẻo ướt lối em về.
815

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2005

Chủ Nhật



Buồn làm sao cho ngày chủ nhật
Của người học trò vớ vẩn hay yêu !

Những ngày kia vui vẻ hơn nhiều
Ngồi chăm chỉ lắng nghe lời thầy giảng,
Hay vui đùa chuyện trò cùng chúng bạn,
Trí bình yên thư thái biết bao nhiêu,
Và nhất là được trông thấy người yêu,
Người thiếu nữ xinh như tờ giấy trắng.
Lần đi học là một lần đo đắn :
Đi làm sao cho gặp được giữa đường
Cô nữ học sinh tha thướt đến trường,
Tay đỡ nón và tay cầm sách vở.

Ngày chủ nhật là một ngày mong nhớ
Ở trong nhà không ngớt ngoái trông ra,
Hy vọng người yêu mến bước ngang qua ;
Gặp gỡ mãi cũng gây tình lưu luyến.
Chờ đã mệt mà người không thấy đến
- Có bao giờ người nghĩ đến ta đâu !
Thì giờ đêm qua ... nắng xế ngang đầu
Lòng rưng rức, người bần thần bực bội
Quần với áo đã mấy lần thay đổi ;
Quyển sách nào đem đọc cũng buồn tênh.

Tâm thần ta như có vẻ bấp bênh
Như chán chê, như rã rời, ngao ngán ;
Ta tưng tức, ta giận hờn các bạn
Sao mải vui không đến với ta chơi ;
Ta trách thầm những kẻ ở xa xôi
Sao hờ hững không thư từ chi cả !
Quanh quẩn mãi ... Trông ra ngày sắp ngả,
Lần cuối cùng nhất định bước ra đường,
Đi bơ vơ lòng thấm thía ngùi thương
Đường quen quá chán chường như tắt lối !
Ta quay lưng lủi thủi trở về nhà
Không hiểu sao thấy tiếc một ngày qua .
801

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2005

Chiều Trên Sông Phan Thiết



có một chiều trên sông
dòng cà ty chảy xiết
em đã đi biền biệt
bao giờ, tôi chẳng biết!
nhặt từng bông vông đỏ
tôi thả xuống dòng sông
một đời sông trôi mãi
một đời tôi long đong.
gió từ sông hắt lạnh
thành phố lên đèn vàng
một mình tôi tha thẩn
phan thiết buồn mênh mang.
em đã đi biền biệt
để lại dòng sông buồn
em đã đi biền biệt
cho phan thiết dỗi hờn.
chiều trên sông một mình
trôi về đâu cà ty?
còn trong tôi nỗi nhớ
buồn như mùa thu đi!
827

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2005

Chuyện Về Một Ðường Ray



đường ray ngày ấy song song
thân thiết lắm, nhưng vẫn không tương phùng
lãng mạn đến thế là cùng
mười lăm cây số nghe chừng vèo bay
chân hai đứa trên đường ray
thăng bằng tay nắm bàn tay bước đều
nói cười xòa dấu quạnh hiu
nắng trưa mà ngỡ nắng chiều dịu êm
thế rồi sợi khói bay lên
mỏng manh chìm khuất vào miền lãng du
đường ray ngày ấy chừng như
song song mãi, chỉ để... ru một người!809

Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2005

Cho Ngày Nắng Hạ



Cho nhỏ đấy những ngày nắng hạ
Nắng sân trường nhún nhảy gót chân
Gió lên cao cho mây xuống thật gần
Chở mơ ước bay lên trời tít tắp.

Cho nhỏ đấy cánh phượng hồng e ấp
Nở môi cười hồi hộp gọi tiếng ve
Chân níu bàn chân mắt ngóng tai nghe
Cơn mưa xuống mọc nghìn bong bóng nước.

Cho nhỏ đấy một đời dài phía trước
Tuổi tròn trăng mà cứ ngỡ lên mười
Cổng trường đóng. Ngả đời năm bảy lối
Để một người ... định nói ... rồi thôi .
828

Thứ Năm, 12 tháng 5, 2005

Con Gì Đáng Sợ



Con gái thấy con gì cũng sợ
Sợ con giun, con gián, cả con sâu
Có độc đâu, có tốt đâu
Mà sao khiếp vía thất kinh cắm dầu
Khéo thay nhìn trước ngó sau
Chạy đâu không chạy, chạy vào con... tim
Con trai đáng sợ biết bao
Mà sao con gái cứ lăn xã vào .
811

Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2005

Con Thuyền Kỷ Niệm














Tôi đã trải qua mùa hè thứ mười của thời thơ ấu tại một nông trại miền núi thuộc miền Tây Na Uy, nơi mẹ tôi đã sinh ra. Đó là những ngày tháng đáng nhớ nhất của đời tôi. Điều còn đọng lại đậm nét trong trí óc tôi là những lúc tôi và ông tôi ở bên nhau.

Điểm đầu tiên tôi chú ý đến ở ông tôi là hàm ria mép dày, rậm cùng đôi vai rộng. Điểm thứ hai là cách ông làm việc. Tôi đã quan sát ông suốt cả mùa hè. Ông cắt cỏ bằng những nhát hái mạnh và khéo léo, vun tất cả lại rồi đem phơi khô. Ông lại bó củi khô thành từng bó lớn, lần lượt vác về vựa. Ông còn làm thịt một con lợn, bắt cá và đem đi muối, xay lúa mạch trong một cối xay chạy bằng sức nước, trồng và dự trữ khoai tây. Nội trong mùa hè ngắn ngủi, ông phải chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cho cả gia đình và lũ gia súc qua được mùa đông dài băng giá. Ông chỉ ngơi tay chốc lát để ăn uống và chợp mắt vài phút.

Tuy vậy, ông vẫn tìm được thời gian riêng cho hai chúng tôi. Ngày kia, sau chuyến đi sang làng bên, ông trao cho tôi một con dao nhỏ có vỏ bọc và nói : " Những thứ này cho cháu đấy. Bây giờ cháu xem ông nhé!" .

Ông rút dao ra khỏi vỏ, cắt một nhánh cây tươi nhỏ, ngồi xuống bên cạnh tôi. Với đôi tay đầy vết chai, ông chỉ tôi cách làm ống sáo. Cho đến hôm nay, đã sáu mươi ba năm trôi qua, cứ mỗi lần tôi nghe những âm điệu trong trẻo của những ống sáo, tôi lại nhớ đến tiếng nhạc phát ra từ ống sáo bằng cây tươi của ông tôi. Sống ở một nông trại miền núi hẻo lánh, ông đã phải học cách tạo ra tất cả với những gì mình có trong tay.

Ngày đó, tôi luôn suy nghĩ một cách đơn giản là người ta cần cái gì thì mua cái đó. Tôi không rõ ông có biết điều này không, nhưng hình như ông muốn dạy tôi một điều khác. Một hôm, ông bảo : " Đi với ông, ông có cái này cho cháu" . Tôi theo ông xuống hầm, đến bên một cái bàn thợ mộc gần cửa sổ. " Cháu sẽ có một chiếc thuyền nhỏ. Cháu có thể thả nó ở Storvassdal" , ý chừng ông muốn nói cái hồ nhỏ cách nhà tôi vài dặm.

Tuyệt thật, tôi thầm nghĩ, rồi nhìn quanh tìm chiếc thuyền. Nhưng chẳng thấy đâu. Ông nhặt một khúc gỗ dài độ 18 inch lên." Chiếc tàu ở đây" , ông nói, " Cháu sẽ tự làm ra nó" . Đoạn ông trao cho tôi một lưỡi rìu nhỏ sắc như dao cạo. Tôi không rõ phải làm như thế nào nên ông hướng dẫn tôi. Tôi bắt đầu đẽo phần mũi tàu. Sau đó ông lại chỉ tôi cách sử dụng búa và dùi đục, tôi chuyển sang làm khoang thuyền. Thỉnh thoảng, ông lại xuống tầng hầm, sửa lại vài chỗ vụng về, hoặc mài sắc lại các dụng cụ. Ông trả lời câu hỏi của tôi, gợi ý thêm, nhưng hầu như mọi việc tôi đều làm cả.

" Nó sẽ là một chiếc thuyền tốt. Cháu đã làm nó bằng chính đôi tay của cháu" , ông nói, " Không ai có thể cho cháu những gì cháu tự làm cho bản thân" . Lời của ông vang vang trong đầu tôi lúc tôi làm việc. Cuối cùng, tôi đã hoàn thành phần khoang thuyền. Tôi làm tiếp một cái cột buồm và một cái mái chèo. Chiếc thuyền không có gì đặc sắc, nhưng tôi thấy hãnh diện vì mình đã tạo ra nó.

Rồi với con thuyền nhỏ trong tay, tôi hướng đến Storvassdal. Trèo lên sườn núi dốc đứng, tôi vào rừng và đi theo một lối mòn khá dốc. Tôi băng qua các con suối nhỏ, giẫm lên lớp rêu xanh đẫm nước và đi lên những bậc thang đá trơn trợt - cao hơn, cao hơn nữa cho đến khi tôi ở phía trên hàng cây rừng. Cuối cùng, sau khoảng 4-5 dặm đường, tôi đã đến nơi.

Tôi thả chiếc thuyền xuống nước và bắt đầu mơ mộng. Một làn gió nhẹ đưa chiếc thuyền sang bờ bên kia. Khí trời thật trong lành. Xung quanh im ắng, ngoại trừ tiếng líu lo của một chú chim non.

Tôi trở lại hồ nhiều lần. Ngày nọ, mây đen kéo tới, sấm chớp ầm vang và mưa đổ xuống như trút nước. Tôi co người nấp dưới một tảng đá lớn và cảm thấy hơi ấm trong khe tỏa ra. Nhìn chiếc thuyền nhỏ của tôi ngả nghiêng giữa mặt nước nhấp nhô, tôi liên tưởng đến hình ảnh một chiếc tàu dũng cảm đương đầu với biển cả dậy sóng. Một lúc sau, mặt trời ló ra và tất cả lại như cũ.

Gia đình tôi chuẩn bị quay về Mỹ. " Con không thể mang chiếc tàu về nhà. Chúng ta có quá nhiều hành lý" , mẹ tôi bảo. Tôi van nài mẹ nhưng chỉ hoài công.

Lòng buồn bã, tôi đến Storvassdal lần cuối cùng, tìm tảng đá mòn lớn, đặt chiếc tàu vào khoảng trống bên dưới tảng đá, rồi dùng đá nhỏ chất đống lấp lại, quyết định ngày nào đó tôi sẽ quay lại tìm kho tàng của mình.

Tôi từ biệt ông tôi, không biết rằng đó cũng là lần vĩnh biệt. " Tạm biệt cháu!" , ông nói và siết chặt đôi tay tôi.

Mùa hè năm 1964, tôi đến Na Uy với cha mẹ và vợ con tôi. Một hôm, tôi rời nông trang, đi bộ đến Storvassdal với ý muốn tìm lại tảng đá lớn ngày xưa. Nhưng sao xung quanh nhiều quá! Tôi đã gần bỏ cuộc thì chợt trông thấy một đống đá nhỏ chèn dưới một tảng đá mòn lớn. Chậm rãi, tôi dời các viên đá ra và thò tay vào khoảng trống bên trong. Tay tôi chạm vào một vật gì đó nhúc nhích. Tôi lôi chiếc tàu ra. Ba mươi bốn năm qua nó đã nằm ở nơi đây, chờ đợi tôi quay lại. Khoang tàu và cột buồm bằng gỗ dày hầu như không hề bị suy suyển, riêng có lớp vải buồm đã mục nát.

Tôi sẽ không bao giờ quên giây phút ấy. Khi tôi mân mê con thuyền, tôi cảm thấy như ông tôi đang hiện diện đâu đây. Ba chúng tôi lại được ở bên nhau, và giữa ông tôi, tôi và chiếc thuyền nhỏ thực sự có một mối dây liên kết gắn bó với nhau.

Tôi mang chiếc thuyền về trang trại cho mọi người xem và khắc lên trên mạn thuyền hai con số 1930 và 1964. Có người gợi ý tôi nên mang chiếc thuyền về Mỹ. " Không được" , tôi đáp, " Chỗ của nó là dưới tảng đá mòn ở Storvassdal" . Và tôi vẫn mang nó về ở chỗ cũ.

Tôi trở lại hồ năm 1968, 1971, 1977 và 1988. Mỗi lần như vậy, tôi lại khắc số năm lên mạn thuyền. Ông tôi như gần gũi với tôi hơn. Lần cuối tôi đến Storvassdal vào năm 1991. Lần này, tôi dắt theo hai đứa cháu gái : Catherine, 13 tuổi và Claire, 12 tuổi. Trên đường lên núi, tôi nghĩ đến ông tôi và thầm so sánh cuộc đời ông và cuộc đời của hai đứa bé. Catherine và Claire là mẫu người quyết đoán và độc lập hệt như tổ tiên khi xưa. Có điều không biết chúng có lỡ mất những thú vị thật sự của cuộc sống khi chúng được sinh ra trong hoàn cảnh đầy đủ hay không ?

Bằng thái độ không mệt mỏi trên nông trại hẻo lánh này, ông tôi đã dạy cho tôi rằng chúng ta nên chấp nhận và phải biết ơn những gì ta có, dù ít hay nhiều. Chúng ta phải chịu đựng khó khăn và biết thụ hưởng niềm vui. Điều quan trọng nhất là phải dựa vào sức của bản thân để tiến lên trong cuộc sống.

Cháu tôi tuy cũng lớn lên ở vùng ngoại ô với những nông trại, nông trang, nhưng cuộc sống rất đầy đủ và tiện nghi. Nhưng tôi luôn hi vọng - và tin chắc rằng chúng sẽ có cách riêng của chúng để đương đầu với cuộc sống đầy khó khăn. Mong sao chúng hiểu được bài học ông tôi đã dạy tôi nhiều năm trước - bài học về con thuyền nhỏ cùng bức thông điệp về sự tự lực cánh sinh.

Trên núi cao, tôi ngập ngừng không mở lời như e ngại mình sẽ phá tan sự yên tĩnh. Chợt Claire ngắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Cô bé ngước lên nhìn tôi rồi nhẹ nhàng nói: " Ông ơi, ngày nào đó cháu sẽ quay lại nơi đây" - Một thoáng ngập ngừng - " Cháu sẽ mang theo cả con của cháu nữa" .

837

Thứ Năm, 5 tháng 5, 2005

Vết Sầu



Tình đã chôn vùi dưới vực sâu
Huyệt lạnh từ đây chỉ một màu
Trắng tang, tình khép vào đáy mộ
Ngàn năm chẳng lặn vết sầu đau !

Làm sao lành lặn vết thương đau ?
Đã bao năm tháng chôn thật sâu
Ai đành khơi lại chiều hôm ấy
Cho mảnh hồn tôi chất ngất sầu.

Trời đã vào đông, núi bạc đầu
Chừng nào tháng Bảy gặp mưa Ngâu
Cánh chim Ô Thước dường mỏi mệt
Bao giờ trở lại nối nhịp cầu ?!

Một giấc mơ qua mãi ôm sầu
Cho lòng quặn thắt giữa đêm thâu
Làm sao quên được bao dâu bể
Cách nào xoá hết nỗi niềm đau ?!!

Duyên nợ rã tan mùa thu ấy
Tơ lòng đứt đoạn đã từ lâu
Châu về chi nữa thêm vướng khổ
Hợp phố làm gì chất... hận sâu.

Thôi đành hẹn lại kiếp mai sau
Vào một mùa thu lá đổi màu
Dâng hiến trao ai đầy mộng ước
Bù đấp tháng ngày đã khổ đau

Anh ở trên mây cao thật cao
Vui cùng chị Nguyệt với ngàn sao
Để em nhung nhớ lòng quặn thắt
Tim tình rạn nứt mắt lệ trào.

Tình theo lượn sóng chìm đáy sâu
Mộng đã tàn phai trắng bạc màu
Bóng người mờ nhạt trong mây xám
Sao lòng cứ mãi nghe quặn đau !!

Hồn Thiêng - Sông Núi tận tim sâu
Nghĩa ơn ghi khắc chẳng nhạt màu
Chốn cũ mãi nằm trong tiềm thức
Nơi này sầu nhớ dạ xót đau.
880

Thứ Hai, 28 tháng 2, 2005

Chờ Em



Chiều về nắng nhuộm bóng cây
Nghiêng nghiêng theo lối ngõ này em qua
Nhẹ nhàng câu hát dân ca
Đệm thêm nhịp guốc cho tà áo bay
Trách ai sao để tóc dài
Sợi vương vấn nhớ, sợi say say lòng
Phải chi là sợi tơ hồng
Trời không thương cũng nối vòng tay nhau
Tôi chờ em... tóc ngả màu ...800

Thứ Hai, 31 tháng 1, 2005

Sao Trời Không Mưa



Vì sao trời hôm ấy không mưa ?

Chân em về không để dấu trên cát

Áo em về vẫn ôm ấm thân thon

Mẹ vẫn nhìn em bằng ánh mắt hao mòn.
 Vì sao hôm ấy trời không mưa ?

Mây đen trên trời  trĩu ướt cả hồn

Em đã ngộp trong cơn thèm gió bụi

Mà bão giông khô khốc cứ đè hôn.
 Trời không mưa mà em như nóng bỏng

Cả trời chiều hầm hập tiết mồ hôi

Em chỉ sợ trong mắt buồn mằn mặn

Hương rã rời êm ái lẫn ăn năn
 Nhưng vì sao trời không mưa hôm ấy ?

Sắp đã tràn ly ưng ức vội bờ

Chỉ một giọt là thác ghềnh vỡ lối

Thành muôn chiều ngơ ngẩn những mây trôi.


Đã muôn chiều, dù hôm ấy không mưa !

Mẹ vẫn nhìn em chiều đón sáng đưa

Chiếc tượng khỏa thân còn trắng lối năm xưa

Đường bông cỏ đã đổi sang màu nắng hạn.

Chiều nay về, đường mờ sương bao phủ

Tóc em cài muôn ngàn hạt nhớ thương

Trời đã lấy đi cơn ngập ngừng ấp-ủ

Em trách sao trời hôm ấy không mưa ?!!

881