This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2007

Xuân Ðợi






Cả nhà đợi Thiện đã mấy ngày nay. Má tôi vì chẳng biết nó có đem nếp như mọi năm không, mua trước đâm ra dư phí đi. Ba tôi thì đợi để được thông tin về những bà con mà lâu nay công việc làm ăn quay mù chẳng còn thời gian thăm viếng. Các em tôi lại mong được dắt Thiện đi vòng vòng thành phố chơi, thú vị với vẻ hiền lành của anh và để có được niềm kiêu hãnh về một lối sống hiện đại. Tôi lại vì một lẽ khác, gặp Thiện thì như bắt gặp cái gì đó thật gần gũi, thật dịu dàng dễ chịu, bởi tôi là đứa chậm hội nhập với cuộc sống mới nhất trong nhà.



Hăm bảy rồi, đã thấy Tết trong những chậu cúc, mai, mãn đình hồng theo xe đò hoặc những ba-ga xe cub vụt qua lại trên đường. Bánh mứt, dưa hấu xếp như núi trong chợ, ngoài các ki-ốt dã chiến. Và cả trong các bước chân hốt hả. Tết đó nhưng hình như chưa đủ, bỗng thấy nhớ những Tết năm xưa dạo nhà còn ở dưới quê. Hầu như nhà nào cũng cùng một thứ công việc. Dọn cỏ quét vôi mồ mã để ông bà cùng về vui tết, về qua hái ít trái khế chua đánh bóng bộ lư đồng, sẵn lau dọn bàn thời, cắt ít vuông giấy đỏ dán lên cặp dưa, bứng vài ba chậu vạn thọ đặt theo những gốc vột dọc hành lang... Trong bếp thì khói um um, chảo mứt tỏa thơm lựng lẫn mùi ngọt hăng xông lên từ đám dưa cải, dưa kiệu trong mấy chiếc khạp nhỏ xếp hàng đằng góc bếp. Dịch ra ngoài chút xíu, nồi bánh đang sôi sùng sục, trẻ con chạy quanh đôi mắt hau háu, cái cười viên mãn. Tôi là con gái đầu nên đây là những ngày bận rộn nhất, suốt ngày lăng xăng trong bếp với má. Ba tôi bận làm ăn trên Sài Gòn, việc đàn ông giành hết cho Thiện. Ấy là thói quen rồi.



Nhà Thiện sát nhà tôi. Mẹ Thiện trước có sạp khô mắm ngoài chợ nên cuộc sống cũng đỡ khổ, nhưng sau ngày bà mất, mấy cha con chỉ quây quanh việc làm mướn kiếm sống. Ruộng rẫy làm theo thời vụ nên thu nhập cũng rất bấp bênh. Ba tôi thấy vậy bảo mấy ba con Thiện sang làm “công ruột”, nghĩa là bao hết việc đồng áng, nhận lương ổn định, có thể ăn cơm luôn. Chú Tám đồng ý. Vậy là từ đó chúng tôi cùng làm việc, ăn chung và chơi chung với nhau. Nhà đông vui hẳn lên. Họ thật thà nên ba tôi tin tưởng lắm, và vì hàm ơn mà tự nguyện giúp gia đình tôi đủ việc, những dịp lễ lộc, cúng tế một tay họ lo. Tết cũng vậy, chốc chốc chạy lên xem Thiện “làm mới” nhà trên, nghiêng bên này, ngó bên kia, đạo diễn cho anh, trong bụng không khỏi bảo “thẩm mỹ” lắm!



Sáng mồng một tất cả lên đồ xếp hàng đợi lì xì. Những phong bao đỏ cho cả chúng tôi lẫn anh em Thiện. Rồi túa ra với đủ thứ trò, cười nói, la hét, ăn đồ ngọt, xả rác trăm thứ tha hồ không sợ bị mắng. Má bảo Thiện chở tôi lên chùa lạy Phật. Thấy tôi mặt áo dài, Thiện cũng “vô thùng” hẳn hoi. Nhỏ em tôi cười híp mí, y như cô dâu chú rể về nhà má, mắc cở muốn trốn. Mà thật, ăn mặc như vầy thấy mình lớn và khác quá, xưng hô mày tao nói năng như hằng ngày thấy cũng kỳ kỳ. Bắt đầu từ mùng hai nhà lúc nào cũng chật khách. Bà con hàng xóm tới chúc tết cười nói râm ran, hầu như mọi phiền muộn đã trút hết từ chiều ba mươi. Ðông nhất vẫn là bạn bè của ba ở Sài Gòn, ai cũng sang trọng, cao lớn, vui vẻ ồn ào nhưng khó gần. Tôi lớn nhất nên cũng được chú ý. “Con gái khá lắm, mai mốt chú làm mai dân hải quan cho”. “Xời, đừng thèm, để chú giới thiệu cho, trí thức hẳn hoi, bác sĩ, đẹp trai đàng hoàng”. Tôi chỉ biết lí nhí: “Dà, cháu còn nhỏ”. Thiện đứng ngoài hành lan chắc cũng đã nghe. Quê quá!



Nhưng rồi chẳng còn được vui một cái tết nhà quê nào nữa. Hôm kia ba tôi về phán: “Cả nhà sắp xếp lên trển ở, con Mỹ được gần trường, hai đứa kia có dịp học thêm ngoại ngữ, mẹ mày lớn tuổi rồi, buôn bán đỡ hơn làm rẫy. Vườn đất thì để cha con chú Tám mướn làm, tiền thu mỗi năm sẽ bàn sau... “Mọi sự sau đó đúng như ba xếp đặt. Từ đó, cứ tết đến, chú Tám lại sai Thiện đạp xe đem quà lên cho chúng tôi. Vậy là cứ đúng một năm tôi mới lại gặp Thiện. Háu hức mong đợi bao nhiêu rồi cũng nói với nhau những câu xã giao, xa lắm là chuyện xóm chuyện làng bởi Thiện sau này lạ lắm, trông buồn buồn và kém hòa đồng. Ðôi khi nhìn anh tôi nghĩ không biết đây có phải “cu Thiện” hay cười, hay nói, cứ chuyền thoăn thoắt qua cành măng “dọi” cho cô Mỹ của ngày xưa nữa không. Chỉ dám nghĩ trong bụng cái điều: Có phải Thiện mặc cảm, rồi bằng cách này cách khác cố biểu hiện cái điều: không nên đâu, Mỹ quí Thiện lắm.



Và có phải Thiện cũng chẳng muốn đến đây nữa? Ðã hăm bảy rồi! tôi vẫn nghe ba tôi dọa bán đất, nếu vậy thì có thể lắm chứ.



... Cuối cùng thì anh cũng đến. Vào buổi sáng. Cái giọng ồm ồm đe dọa khách của con lu buộc khách phải chửng lại. Tôi nhìn ra. Thiện dắt xe đạp, người hơi khòng, mặt hốc hác kinh khủng. Trên pa-ga cũng lỉnh kỉnh những dừa, nếp, đậu... và còn thêm một cô gái đôi mắt với tia nhìn “liên tục đổi mục tiêu”, miệng chưa chi đã cười toe quên phứt chiếc răng khuyết, tay chưa chi đã với bứt một nhánh lá tùng. Ồ, Chi xí xọn, đứa con gái hàng xóm mà hồi trước tôi với Thiện đều ghét cay ghét đắng. Nhưng đó là chuyện xưa, còn bây giờ thì đấy là hình ảnh kỷ niệm. Cảm xúc về bạn bè, tuổi thơ, quê hương chợt đầy ắp trong tôi. Tôi ào đến nắm lấy tay nó. Nó cũng mừng rỡ. Duy chỉ có Thiện vẫn giữ vẻ nghiêm lạnh. Thiện bảo phải về gấp nên cần gặp má tôi ngay.



Câu chuyện của hai người lọt qua những khe cửa ngăn nhà ngoài.



- Năm nay trời không lạnh, trái cây thất mùa, thím à. Còn lúa thì “ông tí” phá quá, cúng kiến hay giăng bẫy đều không ăn thua, đành chịu đứt vốn. Con nói để chú thím thương mà cho nợ lại một nửa tiền...



- Chà khổ hà! Thời tiết ngặt quá. Ông này ổng cũng tính kêu người bán đất. Ðất bây giờ là vàng đa.



Lại nghe tiếng thở dài không biết của ai. Tôi bỗng ái ngại vì câu nói thiếu cảm thông của má.



Nhỏ Chi tha thẩn chỗ mấy bồn kiểng. Tôi bất giác ngắm nó. Chiếc áo hồng với những đường viền đăng ten chạy quanh cổ tay cho thấy một cố gắng làm mới. Chiếc nơ trắng to tướng đặt trên guộn tóc dày. Cũng làm nó xinh đó chứ! Giá nó đừng khuyết một cái răng cửa. Tôi bất giác liếc nhìn mình trong chiếc gương lớn trên tủ, cười một nụ đủ cho thấy những chiếc răng hạt bắp rồi quay sang nó. Hình như nhìn thấy trong đó vẻ thiện cảm, nó cũng mỉm cười, môi trên chum chúm để giấu chỗ răng khuyết, tay ngoắc ngoắc tôi:



- Chị Mỹ, mai mốt chỉ tôi một chỗ may áo dài đẹp đẹp nha. Tôi sắp lấy chồng.



- Sẵn sàng thôi. Mà ai vậy?



- Anh Thiện chớ ai. Anh nghèo, tôi cũng nghèo, rồi thương. Thấy tôi không được đi đó đi đây, bữa nay ảnh cho theo đặng cho tôi biết Sài Gòn đó.



Nó nói rồi cứ đứng trân, hai tay thỏng xuống, cái miệng cười hoài không khép, nhìn lâu càng có vẻ rộng ra thêm. Tôi nghĩ nó không được bình thường vì bộ dạng đó cộng với câu nói kia nữa. Thiện thương nó là sao? Thiện chúa ghét tính thài lai của nó mà! Tôi nhìn lại nó một lượt nữa nhưng không dám nhìn lâu rồi bước gấp vô nhà. Thiện đứng chỗ cửa ngan. Anh cũng cười cái cười méo mó để lộ những chiếc răng ám khói. Hồi trước, tôi nói ghét khói thuốc, anh gật, bảo sẽ không bao giờ hút thuốc mà. Cũng với cái dáng khòng khòng, khuôn mặt sạm nắng, nó là chi tiết đắt giá góp phần hoàn chỉnh bức chân dung về một nông dân mà những thất bại mùa màng làm cho khắc khổ, cằn cỗi đi. Rồi anh sẽ lấy vợ, sinh con và nuôi con, vất vả ruộng sớm đồng trưa nhưng chẳng bao giờ tìm thấy hạnh phúc bởi vợ anh là người phụ nữ mà chưa bao giờ anh yêu. Không hiểu sao cái cười của anh lại khiến tôi tin cái điều nhỏ Chi nói. Ngẫm nghĩ tôi thương cho Thiện quá, nhưng lại cũng oán anh. Những muốn không thèm đếm xỉa nhưng cuối cùng tôi cũng đứng chặn anh lại:



- Thiện tệ lắm, không dè chẳng ra gì!



- Tôi xin lỗi... – Anh cất giọng rầu rầu.



Ôi, tôi chỉ muốn khóc thật to lên cho thoả. Trí tưởng tượng của tôi bỗng hóa Thiện thành cha anh, già nua xương xẩu, cố giơ cao cái cuốc cắm phập một nhát tóe bụi vào đất. Nhưng đó không phải mảnh đất của nhà mình. Ông làm thuê cả đời mà. Kinh khủng quá.



- Cái gì kinh khủng? Ðộng đất hay bị gả ép?



Lâu lắm tôi mới thấy chị ngủ trưa vậy.



Tôi thức dậy vì câu nói ấy của nhỏ em. Ngơ ngác và rồi rất mừng vì mọi sự là chiêm bao, một giấc chiêm bao buồn và quái gở. Không biết tôi có gọi tên ai ra không? Tôi sợ nhỏ em tôi là đứa nguy hiểm, chuyên đi guốc trong bụng người khác. Nhưng nó đi rồi.



Tôi choàng dậy, bóc một tờ lịch, nhìn xuống đường. Buổi sáng hăm tám vẫn như mọi buổi sáng khác. Vẫn ồn ào, người người, xe xe nhắc rằng: đây mới là thực. Sự thay đổi của Thiện, điều nhỏ Chi nói, cả quyết định bán vườn của má tôi đều là chiêm bao hết. Nhưng còn chuyện thất mùa. Lâu rồi không về quê nhưng tôi cũng đã trông thấy ở đây hàng đống xác rầy nâu bu theo đèn mà chết. Lại thêm đông vừa rồi không lạnh, người thành phố chỉ mất đi cơ hội diện những chiếc áo ấm mốt nhất, nhưng với người nông dân thì, có thể sẽ mất đứt một vụ trái cây. Có thể không?



Nhưng, nay mới chỉ hăm tám, vẫn còn một ngày để chờ Thiện mà!

836

Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2007

Vệ Đường Hoa



     Hết mùa mưa, Đà Lạt lạnh hơn với tia nắng rực rỡ. Bên đường anh đi nở rộ một loài hoa vàng. Nhiều người gọi tên hoa là đông quỳ hay dã quỳ. Riêng anh, mãi mãi hoa vẫn là: Vệ đường hoa.

      Vệ đường hoa! Vệ đường hoa!

      Trời xanh cánh gãy: nửa đời ta.

      Em, tình cờ nào đã xui hai đứa gặp lại nhau sau mười bốn năm xa cách. Anh vẫn tưởng không bao giờ còn nhìn thấy em nữa. Ai ngờ chiếc xe hơi mới tinh đưa vợ chồng em vượt mấy trăm cây số đến thành phố này, lại hỏng máy nơi gần xưởng anh làm thợ. Thoạt đầu ta chưa nhận ra nhau vì em khuất lấp sau mấy người tò mò đứng xem hai vợ chồng Việt kiều và chiếc xe hơi lạ mắt. Còn anh, áo quần tay chân lấm lem dầu mỡ, đang mải nghe chồng em giải thích những bất thường của máy xe bằng thứ giọng Huế xa quê đã lâu ngày, thỉnh thoảng điểm vài thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài. Chồng em, khuôn mặt tròn tròn, mang đôi nét mũm mĩm như búp bê con trai, đôi lúc thoáng chút băn khoăn, ý chừng thắc mắc không biết anh thợ trước mặt có hiểu được những rắc rối của kỹ thuật mới chăng. Và, anh đã nhìn lên để ta nhận ra nhau sau một thoáng ngỡ ngàng. Tiếng reo mừng của em vẫn sáng trong như ngày nào nhưng anh nghe tưởng như trong mơ. Giọng ngập tràn niềm vui, em giới thiệu hai người: Anh là người quen cũ, người anh sinh viên của ngày xa xưa khi em còn là cô nữ sinh Đồng Khánh những năm cuối bậc trung học. Nửa giờ sau, khi xe sửa xong, cầm nắm tiền công do chồng em trao, anh đã cố tình không nghe tiếng em hỏi chỗ anh ở để ghé thăm.

      Ngày ấy, đã lâu lắm rối, mười bốn tuổi, anh xin vào ở Viện Dục anh, lớn lên nhờ sự đóng góp của những người hảo tâm. Bọn anh gần một trăm đứa, hằng ngày ăn hai bữa cơm thiếu thốn. Phần lớn bạn đồng viện của anh đều mồ côi hoặc thuộc loại bỏ nhà đi hoang. Thiếu thốn nhưng không hiền lành vì đời dạy bọn anh lắm bài học qua cách kiếm sống bằng nghề đánh giày, sửa xe đạp lề đường, bán báo, bán vé xi nê chợ đen và cả chục nghề khác. Anh và chừng vài mươi đứa nữa lại theo đuổi cái nghề mà bạn bè ai cũng chê: đi học. Chắc em còn nhớ khu vườn có hàng rào kẽm gai mấy lớp, bên trong có vài căn nhà cũ, rộng, kiểu Pháp, treo tấm biển Viện Dục anh nằm ở cuối một con đường rất đẹp trong thành nội. Ngày ấy, anh ở cùng đường với em. Mỗi người ở một đầu con đường im bóng cây cao. Nhưng đám con gái có bao giờ dám đi đến cái khúc đường trời đánh của bọn anh? Ta chưa biết nhau mãi cho đến cái ngày hai trường Quốc Học và Đồng Khánh tổ chức chung lễ phát phần thưởng cuối năm tại Nhà hát Lớn TP. Năm đó anh học lớp đệ nhị, đôi khi trên đường đi học anh thấy em, cô bé xinh xinh, ngày ngày xe hơi nhà đưa đón từ trường về ngôi biệt thự màu hồng ở đầu đường. Hôm ấy anh vất vả với đống phần thưởng danh dự toàn trường, trong túi không còn một đồng thuê xích lô chở về. Vừa lúc đó em xuất hiện. Em mặc bộ đồ đầm trắng khác hẳn chiếc áo dài đồng phục hằng ngày, xúng xính ôm gói phần thưởng văn nghệ lớp đệ ngũ ra cửa hội trường, sắp bước lên xe nhà chờ sẵn. Anh đánh bạo bước tới xin đi nhờ. Có lẽ anh ngố lắm hay sao mà cả em và chú tài xế đều bật cười rồi cho phép lên xe.

      Từ đó, ta biết nhau. Em trở vào ngôi biệt thự êm đềm, anh về lại cùng đám bạn văng tục chửi thề và thường xuyên nói chuyện với nhau bằng những quả đấm. Thế mà ta lại quen nhau hơn qua những lần gặp gỡ không hẹn trước. Đã bao lần dưới tàn cây dứa dại um tùm trong công viên trước trường hai chúng ta, anh đã giải giúp em và bè bạn những bài toán khó, hoặc làm sẵn bài luận văn cho em chép lại. Thuở ấy, anh chẳng dám nghĩ mình là bè bạn, bởi rõ ràng ta không cùng mức sống. Tuy tâm tưởng ngại ngùng, anh vẫn thầm vui được làm kẻ quen em. Nhờ có em, anh đã có vài thay đổi, mắt nhìn bớt dần ác cảm với cuộc đời nghiệt ngã. Như chiếc áo cố giữ sạch nhất anh dành để mặc mỗi khi đi qua nhà em, dầu có hay không có em đằng sau cánh cổng, anh lần hồi bớt tham gia cùng chúng bạn đi đánh lộn với các nhóm choai choai ở các xóm khác. Cứ như thế bạn bè đâm ghét anh, và thật buồn khi sách vở, giày dép, áo quần lần lần bị chúng ăn cắp gần hết. Anh vẫn mong nhịn nhục cho qua năm cuối cùng bậc trung học, để sau khi thi tú tài xong, sẽ rời bỏ nơi này ra đời kiếm sống.

      Nhưng không được. Buổi tối mùa đông năm ấy, trời Huế mưa sướt mướt đã mấy ngày, anh từ nơi dạy kèm về Viện Dục anh, đã bị nhóm du côn xóm Tây Lộc do có hận thù với một băng bên trong viện, đã chực sẵn để giáng trận đòn thù xuống bất kỳ thằng “mồ côi chó đẻ” nào bên trong viện. Vô tình anh lại là nạn nhân của trận đòn thù. Anh chống đỡ yếu ớt, cố bỏ chạy được một quãng nhưng không thoát kịp. Bất ngờ có ánh đèn pha xe hơi xuyên thủng màn mưa chiếu sáng cả một quãng đường vắng. Bọn du côn bỏ chạy vì ngỡ xe tuần cảnh. May cho anh, cả nhà em vừa đi xi nê về. Dưới ánh đèn pha, em hốt hoảng nhận ra anh gục người ngồi tựa vào cổng nhà. Anh thoáng nghe lao xao tiếng người nói, tiếng ba em quát bảo vào nhà gọi điện thoại kêu xe cảnh sát đến xúc đi. Tiếng em van xin ba chở bạn em đến bệnh viện.

      Anh tỉnh dậy sáng hôm sau trong nhà thương. Gần trưa, em và cô bạn đến thăm anh. Lúc đầu, em hơi giận anh vì tưởng anh còn nhập theo bọn du côn phá phách xóm làng. Dần dần, em hiểu ra, nhìn anh mỉm cười an ủi. Khi em chào về, anh gượng ngồi dậy tiễn nhưng ê ẩm cả người không ráng được. Em về rồi, anh nuối tiếc như mất đi một vật gì quý giá. Hôm sau em lại đến, một mình, mang lại niềm vui bay bổng như thiên thần. Anh không còn thân nhân, ngoài người chị lấy chồng phương xa mỗi năm vài lần thư thăm hỏi. Em bao dung, chăm sóc anh như người em gái. Có em, không khí buồn tẻ của nhà thương trở nên đầm ấm. Anh tưởng chừng như mình quen nhau từ nhiều năm trước, hay từ một kiếp nào. Anh không còn nhớ chúng mình từ lúc nào đã bước ra khỏi khuôn khổ của tình bạn để vào thế giới của tình yêu. Một thế giới mà cả anh và em chưa từng bước vào trước đó. Chỉ biết rằng ba tuần sau, khi anh ra viện, chúng mình bắt đầu trao thư qua trung gian cô bạn gái.

      Em mười sáu tuổi, ngỡ ngàng trong thứ cảm xúc hình như là tình yêu. Anh mười chín, chẳng có gì trong tay, chỉ một hồn đầy mộng mơ. Không nhà cửa, không người thân gần gũi ngoài tình em. Ngay từ đầu chúng mình đã biết gia đình em không thể nào chấp nhận anh. Ba em, người thầu khoán nổi tiếng hàng đầu ở cố đô Huế; me em, bà chủ đại bài gạo tấp nập bên bờ sông Hương. Dưới mắt ba me, anh chỉ là một thằng du côn đã một lần gieo tai giáng họa trước cổng nhà. Anh chỉ còn biết một lối thoát để qua đó đạt được ước mơ hằng ấp ủ, đó là con đường học vấn. Kỳ thi năm ấy anh đỗ ưu hạng. Mừng anh, em đến căn gác trọ thăm anh. Chúng mình đã sống cho nhau trọn một ngày.

      Ngày ấy em mười bảy,

      Ta trao nhau tình sâu,

      Tuổi ấy đừng yêu thế,

      Anh dại khờ biết đâu.

      Rồi anh vào đại học, miệt mài bốn năm với sách vở. Chúng mình có khi giận, khi thương nhưng tình yêu vẫn còn như sợi dây êm ái nối liền hai đứa. Gia đình cấm đoán quyết liệt. Anh vẫn nuôi hy vọng đến ngày thành đạt để được hội nhập vào tầng lớp của ba me. Thực tế sau này chứng minh đó là ảo vọng, nhưng hồi ấy anh tin tưởng lắm nên dồn hết mọi ý chí và năng lực để học hành. Vừa đi học vừa đi làm để kiếm sống, làm rất nhiều nghề, kể cả cái nghề làm máy mà hiện nay anh đang bám víu để nuôi thân qua ngày.

      Sắp đến ngày ra trường, vì đỗ đầu khoa nên anh được thầy viện trưởng đại học trao cho tấm giấy mời danh dự của chiếc ghế dành cho người thân của thủ khoa. Cầm thẻ mời anh ứa nước mắt, vì chẳng còn người thân nào gần gũi. Anh tặng em tấm giấy mời để hoặc là dán vào album làm kỷ niệm hoặc là nếu có can đảm thì đến dự lễ ra trường cùng anh vì buổi lễ được tổ chức rất lớn, như là một ngày hội của toàn thành phố. Anh cám ơn lòng can đảm của em, vì khi trong trang phục giáo thụ bước lên lễ đài lãnh văn bằng, có một giây nào đó anh chỉ thấy có em.

      Chuyện chúng mình vì thế lại đến tai ba me, bạn bè kể cho anh nghe có lần ba đã đánh em vì chuyện ấy. Ba me lần này gần như thành công khi cấm hai đứa gặp mặt. Đám khách mời dự tiệc hằng tháng ở nhà em phần lớn là tướng, tá và nhà giàu, trong đó có người ba me hằng mong kết sui gia. Lần hồi anh hiểu ra rằng, ước nguyện của ba me không đặt ở nơi việc học hành thành đạt mà lại hướng về tiền bạc và quyền thế. Anh không thuộc hai giới đó nên trong mắt ba me anh vẫn chỉ là một thằng côn đồ chực hăm hở cướp con gái nhà người ta. Anh tìm gặp thầy viện trưởng xin lên Đà Lạt dạy học. Thầy rất đỗi ngạc nhiên vì đã dành cho anh một chỗ xứng đáng ngay tại viện đại học.

      Ngày lễ chọn nhiệm sở, thủ khoa đã gây ngạc nhiên cho nhiều người khi đứng trước micro tuyên bố xin chọn Đà Lạt, nhường nhiệm sở nơi đây cho người kế tiếp. Sau đó chúng mình gặp nhau lần cuối. Xứ Huế rất thành kiến với con gái bỏ nhà đi theo trai. Em buồn đau nhiều lắm nhưng không dám làm gì. Thế là anh lên cao nguyên mà không có em...

      Bỏ lại Huế sau lưng, anh mang tâm trạng gần như “kẻ từ quan, lên non tìm động hoa vàng”... Anh làm giáo sư tại trường nữ trung học lớn nhất xứ hoa đào. Thỉnh thoảng nhận được thư em, anh mang ra đồi nằm trên cỏ đọc đi đọc lại hàng chục lần. Mây cao nguyên bay nhanh hơn rất nhiều so với những lần mình cùng nhau nhìn mây trên đồi Từ Hiếu, nhưng lòng anh không chút rộn ràng. Anh yêu một loại hoa vàng mọc dại bên đường. Vệ đường hoa bước vào đời anh từ đó.

      Nhưng những biến động thời cuộc từ giữa tháng 3/1975 đã cắt đứt con đường anh tìm về gặp em. Tàn cuộc chiến, anh về Đà Lạt tiếp tục dạy học tại trường xưa.

      Tin em vẫn biền biệt, dù đã nhiều lần anh gửi thư về con phố nay đã thay tên. Bạn bè cho biết gia đình em không còn ở Huế nữa. Mãi hơn một năm sau anh mới nhận được thư em, mỗi lời thư như một giọt buồn rót vào hồn anh ngay từ câu mở đầu: “Anh yêu, ta xa nhau mãi mãi. Một năm nay em vẫn dõi tìm địa chỉ của anh, vừa biết anh vẫn dạy trường cũ. Bây giờ đại dương đã xa cách chúng mình...”.

      Năm sau anh lại nhận được tin em và cánh thiệp hồng gửi từ Bắc Mỹ báo tin em lấy chồng. Chồng em là con của một trong những người khách vẫn dự tiệc hằng tháng tại nhà em hồi ấy. Thế là mãi mãi em đã xa khỏi tầm tay anh...

      Bây giờ anh dồn hết lòng yêu thương cho đám học trò. Anh cũng vác cuốc theo học trò đi lao động, làm thủy lợi hoặc xới đất trồng khoai. Nhưng có những lúc dừng tay cuốc nhìn đám mây trôi nhanh giữa trời xanh ngắt, chợt thấy em hiện về trong tâm tưởng, vẫn hàng mi cong vút và mái tóc dài cuốn gió tung bay trên đồi Từ Hiếu.

      Lỡ mất em trong cuộc đời, anh chỉ còn cố bám vào chút tình yêu cuối dành cho nghề dạy học. Nhưng rồi nợ cơm áo và tình người hờ hững đã buộc anh phải rời xa lớp, chuyển sang làm thợ máy...

      Không khí lạnh đầu mùa khô bắt đầu mơn man hoa lá trên những lối mòn quanh co của thành phố miền cao. Những cặp tình nhân từ khắp nơi đổ về hưởng vị ngọt của tình yêu hòa trong hơi lạnh. Từng đôi, từng đôi ngập tràn trong hạnh phúc... Có một loài hoa sắc vàng giữa đám lá xanh: Vệ đường hoa.

830

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2007

Cơn Mê



Vừa mới tính ngả lưng xuống giường coi TV thì chuông điện thoại lại reo. Bên kia đâu giây tiếng Mộc Lan không được reo vui cho lắm nhưng đỡ thổn thức hơn mấy lần trước:

- Anh! Chị có nhà không anh cho em nói chuyện với chị đi...

Tôi trêu chọc:

- Mợ không muốn nói chuyện với tôi mà chỉ muốn nói chuyện với chị thôi hả? Sao vợ chồng yên ấm chưa, còn lục đục nữa không?

Lan cười vã lã:

- Dạ! Em làm phiền anh nhiều rồi, với lại chuyện đàn bà với nhau ấy mà. Cũng chưa hoàn toàn yên đâu anh, em cần chị cố vấn cho em thêm một chút nữa...



Tôi trao điện thoại cho Yến rồi thầm nhủ: tưởng nhờ ai cố vấn chứ nhờ chị Yến của em cố vấn thì qủa là kiếm "the right person" rồi còn gì. Yến mà cố vấn cho mẹ nào đối xử với chồng con thì thằng chồng đó không sống dở chết dở thì cũng thành điên khùng cho mà coi. Có lần mẹ kia kể tội thằng chồng hay mèo mả gà đồng rồi nổi nóng nói: "Nhiều khi tôi muốn cắt cái của nợ của thằng chả liệng mẹ nó đi cho rồi chứ chịu hết thấu thằng chả". Yến cố vấn: " Cắt rồi cho vô cái máy xay thịt (meat processor) nghiền mẹ nó ra rồi đổ cho chó ăn, chứ vứt đi thì nó cũng có thể gắn lại thì cắt làm gì?" Chỉ mới nghe có thế mà tôi nổi cả da gà lên …



Mộc Lan là vợ của Hớn em họ xa lắc xa lơ bên ngoại của Yến và vì Yến là vợ tôi nên tôi cũng phải nhận vợ chồng Hớn là bà con... xa bên vợ vì Yến cứ nói rằng qua Mỹ này bà con anh em đâu có ai thì bỏ bà con xa lấy láng giềng gần mà anh. Nói là láng giềng gần là nói giữa đây và Việt Nam chứ vợ chồng Hớn ở mãi tận Chicago còn tôi thì ở mãi Miami thì cũng cả ngàn dặm mấy khi nhìn thấy mặt nhau. Cách nay hơn 20 năm sau khi cưới và mãi đến khi đã có đứa con đầu lòng thằng Hớn mới dắt vợ là Mộc Lan xuống nhận bà con với bà chị họ xa lắc xa lơ.

Thế rồi nó biệt tăm biệt tích chả thấy tăm hơi Hớn đâu. Cứ khoảng năm bẩy năm thì được nó gọi điện thoại một lần thì y như rằng lần đó nó không thất nghiệp thì cũng than vãn chuyện nọ chuyện kia. Ấy vậy mà nó cũng đã theo kịp tôi sản xuất được những năm đứa con.





Hồi đầu năm nay bỗng dưng Mộc Lan gọi điện thoại và chưa nói thì đã thổn thức tức tưởi bù lu bù loa, mới đầu tôi tưởng có ai chết nhưng khi nghe Mộc Lan bệu bạo: "Cho em nói chuyện với chị đi... hu hu…" Tôi vội trao điện thoại cho Yến.



Sau đó tôi được biết chuyện khóc mếu của Mộc Lan nó ly kỳ và tôi không ngờ được cái thằng Hớn hồi đó gặp thì qủa là một chàng chân chỉ hạt bột đúng mẫu mực mà người Mỹ gọi là "family man"; có nghĩa là ngoài chuyện kiếm tiền chăm sóc cho vợ con ra nó không màng bất cứ chuyện gì khác. Nó không quan tâm đến chuyện chính trị chính em, hội hè đình đám gì cả. Hễ nói tới những chuyện đó thì nó gạt phăng đi rồi kêu: "Ối giời ơi! Cứ tụ họp lại rồi chửi nhau như chó với mèo mất thì giờ chứ qúy báu đâu mà để ý tới". Thấy tôi khoái nói chuyện thơ văn thì nó cũng "Ối gời ơi! Thơ văn thì có mài ra mà ăn được đâu anh, khi mất việc thì cũng xếp hàng ở văn phòng thất nghiệp chứ có ra cái thống chế gì ". Nó còn dậy khôn tôi: "Em khuyên anh, cứ lo cho vợ con anh là anh sẽ thấy niềm vui sướng nhất trên đời này rồi". Vì nể mặt bà chị họ nó là vợ tôi và vì nó từ xa đến thăm mình mà mình khệnh vào mặt nó một đấm thì kỳ qúa nên tôi chỉ nhe răng cười và chửi thầm: "Tiên sư cậu! Nếu sống mà chỉ biết ăn uống no say, nhẩy lên bụng vợ rồi ngủ thì sống làm cái quái gì". Thế mà bây giờ nó làm một việc mà chính tôi cũng muốn dở mũ chào để tỏ lòng " khâm phục ".



Chẳng là năm rồi chàng Hớn nhà ta nói dối vợ là sở làm gửi đi tu nghiệp ngoài tiểu bang một tuần rồi chuồn về Việt Nam du hí. Mộc Lan thật thà tin tưởng nơi chồng nên đâu để ý đến cái mưu mô ma le đó. Mà qủa thật một người chồng như Hớn không tin tưởng sao được. Ngoài việc đi làm, cơm nước và con cái ra Lan không lo gì cả. Ngay chính tôi khi nghe chuyện này cũng ngỡ ngàng và tự bảo mình: "Tiên sư khỉ! Chỉ có thế mà mình không nghĩ ra". Nếu không liều mạng thì hẳn nó là thằng điếc không sợ súng vì chọc vào đàn bà nhất là đàn bà đó lại là vợ mình thì chỉ có nát đời trai... gìa chứ giỡn chơi đâu. Hớn đi Việt Nam được hai lần thì bị bại lộ vì một sự tình cờ Mộc Lan coi cái hoá đơn thẻ tín dụng thấy có tiết mục trả tiền mua vé máy bay đi về Việt Nam. Hớn mồm năm miệng mười chối bai bải bảo rằng mua hộ thằng nọ thằng kia; khi Lan hỏi tới thằng nọ thằng kia thì họ ớ ra bảo đâu có. Riết rồi Hớn cũng cứng họng nên biện bác rằng phải về gấp vì tụi nó đào mả ông bố để xây nhà nên phải vù về giải quyết và không muốn Lan ưu phiền lo nghĩ nên Hắn phải giấu giếm.



Tuy vậy từ đó Mộc Lan để ý theo dõi mọi sinh hoạt của Hớn nhưng chưa phát hiện được điều gì quan trọng hơn. Mới đây cu ta lại nói với vợ rằng phải về Việt Nam để làm thủ tục đòi lại căn nhà của ông bố khi ông ấy chết bị mấy đứa em bà con chiếm đoạt tới bây giờ. Nếu không về thì qúa thời hạn coi như mất luôn. Mộc Lan không chịu, thế là vợ chồng lại hục hặc đứa quăng quật cái này, đứa vật vã cái kia. Khi Mộc Lan đòi cùng về VN thì Hớn không chịu bảo vướng vất không lo được công chuyện thế mới vô lý chứ.



Chả hiểu ai mách bảo mà khi Hớn đi làm Mộc Lan lén coi hết tất cả E-mail PC của chàng ta thì mới té ngửa khi khám phá ra rằng ông chồng yêu dấu mấy tháng nay trao đổi tình yêu hàm thụ trên "Nét" với một em Phương Đào nào đó ở Việt Nam. Em gửi cả hình qua cho chàng cùng với những lời yêu đương nồng nàn tha thiết chất chứa cả một trời nhớ nhung cũng như mong ước được sớm hội ngộ cùng chàng thì đời nàng mới có ý nghĩa. Những thư gởi trả lời em Phương Đào của Hớn cũng không kén nồng nàn tha thiết. Có điện thư chàng còn gửi theo một niềm vui phấn khởi là chàng sẽ gửi về cho em khoảng vài trăm đô để em khuây khoả nỗi nhớ mong người yêu xa ngàn dặm. Mộc Lan than rằng: Trời ơi nghe em tức muốn ói máu! Từ hồi lấy em tới giờ anh ấy chỉ như dùi đục chấm nước mắm, hùng hục như trâu húc bờ ấy có bao giờ em được nghe những lời "romantic" vậy đâu.



Mộc Lan bị một cái "shock" thật lớn và gia đình nàng bắt đầu lộn tùng phèo chả ra làm sao cả. Mới đầu Hớn còn chối quanh chối quẩn nhưng truy riết hắn chẳng thèm chối nữa mà còn nói rằng đã lỡ thương người ta rồi bây giờ Lan muốn đối xử ra sao cũng được. Mà quả đúng như vậy, khi còn giấu giếm được thì mới lo sợ chứ đã lộ tẩy rồi thì còn sợ gì nữa. Quanh quẩn chả biết than vãn với ai bây giờ nên Mộc Lan đành gọi Yến để nỉ non cái cảnh "đêm dài tình ngắn" não nùng này.

Yến bảo tôi:

- Em bảo con Lan để em thảo luận với anh coi ý kiến anh ra làm sao rồi sẽ gọi lại cho nó biết.

Tôi gay gắt:

- Sao bà lại bảo có tôi dính vào rồi mới xử trí là làm sao. Chuyện vợ chồng nó thì làm gì là quyền của nó chứ ngay đến tôi có là bố nó cũng chẳng nói nó được với cái thằng ngang như cua ấy.

Yến ngọt nhạt hề hà:

- Thì tụi nó em út trong nhà có chuyện nó mới nhờ mình chứ nếu không gặp khó khăn thì ai làm phiền mình.

Tôi cười nhạt:

- Khi chúng nó "thung thướng" thì chúng nó không ngó gì đến tôi cả, chỉ khi ăn không vô ị không ra thì bắt tôi phải giải quyết là tại làm sao? Tôi than kiểu mấy anh chồng người Mỹ: Why me? Tôi có tội tình gì?



Yến cười tình nói vuốt, "Thôi mà… đời nó vậy rồi anh cay đắng làm gì. Em út nó có gì thì mình cũng nên bỏ qua chứ". Thiệt đúng là cái giọng của mấy ông hội hè trâu-đánh cứ chửi rủa người khác ra rả xong lại hô hào chúng mìng phải ngồi lại với nhau để mà... cùng chửi nhau nữa.



Chưa có ý kiến gì để giúp Mộc Lan thì chỉ hơn một tuần sau Mộc Lan lại gọi tức tưởi:

- Anh chị ơ em khổ qúa, em muốn chết phức đi cho rồi mà chết không được.

Yến lại cuống cuồng nháy tôi cầm điện thoại khác cùng nghe rồi bảo Lan:

- Có gì thì kể cho chị nghe cần gì phải chết. Chết làm gì cho uổng cuộc đời.

Mộc Lan kể rằng tuần rồi Lan uống thuốc tự tử nhưng Hớn khám ra đem đi cấp cứu, tưởng hắn ta động lòng trắc ẩn thương vợ thương con nhưng không hắn còn doạ rằng nếu Lan còn dở chứng ra nữa thì hắn sẽ cho vào nhà thương điên. Còn nếu Mộc Lan muốn ly dị thì Hớn sẵn sàng ly dị. Mộc Lan bấn loạn nên gọi cả ông anh rể họ xa của Hớn ở mãi tận California để nhờ khuyện giải thì ông anh rể cao niên này lại dài dòng văn tự kiểu anh nhà quê Bắc Kỳ:

- Chắc là tại cái số của nó đấy mợ ạ. Ông bố của nó ngày xưa hai ba vợ nên nó bây giờ chắc cũng vậy. Hồi ở Việt Nam đi hỏi vợ cho nó cả chục đám người ta đều chê là ông bố nhiều vợ qúa người ta sợ con gái người ta khổ nên không ai gả cả. Nếu nó muốn thì cứ kệ nó có sao đâu. Ông bố chồng của mợ hồi còn sống có ba bà vợ thì cả ba vẫn đề huề vui vẻ có chết bà nào đâu.

Mộc Lan than thở: "Em đang tan nát ruột gan mà lại được nghe những lời cố vấn vàng ngọc như thế thì em chết sướng hơn". Vì vậy tai Yến lại được dịp Lan rót vào đó những tin ai oán:

- Chị bảo em phải hành động ra làm sao đây chị? Lớn lên rồi lấy chồng em chưa bao giờ bị sự phản bội tàn nhẫn như thế này. Bây giờ anh ấy lì lợm như vậy thì em biết làm sao. Chả còn ai giúp em cả chỉ còn có chị thôi... hu... hu! Chị nói anh khuyên Hớn giùm em được không?

Yến nổi tam bành:

- Em ngu lắm, em chết làm gì chỉ thiệt thân em thôi. Giờ em phải làm đúng như chị nói đây: Dù có tan ruột nát gan cũng không tỏ một thái độ gì cả. Không nói chuyện với nó; không nấu cơm nấu nước, không cho nó ngủ chung giường, nó có mò mẫm gì thì đạp cha nó đi. Nó muốn đi đâu nó đi, không để ý tới nó nữa mà chỉ lo thủ mấy trương mục ngân hàng, lấy bớt tiền ra cất đi. Và chị bảo điều này: em phải nhớ, không ly dị, cứ bảo nó là anh muốn lấy ai thì lấy tôi không ly dị. Em ly dị là mắc mưu nó. Nó chỉ cần em ly dị là nó chia của mang đi nuôi con đĩ. Phải cắn răng mà chịu rồi có ngày nó sẽ lậy em.



Mộc Lan ngây ngô:

- Nếu nhỡ anh ấy lấy nó thật thì sao?

Yến nổi nóng:

- Sao em ngu thế? Nó lấy thì kệ cha nó chứ. Em còn tiếc gì cái thằng mắc dịch ấy nữa. Dính mấy con đượi non đó thì không chết cũng bị thương. Chỉ sợ chưa hết tuần trăng nó lột sạch rồi tếch với thằng khác chứ nó ở với thằng chồng bá vơ hom hem đáng bố nó à? À quên. Em coi E-mail thì tại sao không viết chửi cho con bé ấy một trận xem nó nói sao. Nhiều khi thằng Hớn dối nó là chưa có vợ hoặc là một thằng ma cô nào đó giả gái kiếm chác chứ đã có gì mà em cuống lên như vậy.



Thay vì bênh "em trai …họ" của mình thì Yến không bênh, Yến lại nổi tam bành bênh em dâu. Tôi khám phá ra một điều là khi "quyền sống" của "phe ta" bị xâm phạm thì đàn bà sẽ nhất trí đoàn kết không thiên vị... với họ hàng đàn ông và sẵn sàng làm cho kẻ thù "phe ta" tan tác mới thôi. Hèn gì ngày xưa ở khu gia binh mấy bà vợ lính thường kéo nhau một đoàn đi khện ghen giùm nếu một "con đĩ" nào đó lại lén lút vụng trộm với chồng của một chị "đồng đội" phe ta.



Sau đó Yến bảo tôi: "Anh thử gọi điện thoại nói chuyện với thằng Hớn xem nó nói sao, có gì khúc mắc không?" Tôi thoái thác:

- Em… của bà thì bà la bà rày chứ tôi làm sao mà nói với nó chuyện này.



Nói vậy thì nói chứ từ trước đến giờ Yến bảo tôi làm gì thì dù trái ý tôi cũng vẫn phải làm, tôi không hiểu làm sao. Theo những nhà tâm lý học thì bảo tôi thuộc típ người "hard to say no", nhưng tôi nghĩ một cách giản dị kiểu Việt Nam thì tôi thuộc típ rất "nể vợ" nên tôi vẫn suy nghĩ về điều này coi ai đúng. Mỗi lần mà từ chối được một việc Yến yêu cầu làm thì tôi cảm thấy thoả mãn vô cùng thoả mãn như sau khi tôi yêu nàng...



Vừa cất tiếng lên thì đầu giây bên kia Hớn đã cười hô hố. Mẹ! Gia đình như thế mà nó lại vui như Tết ấy. Mấy lần tôi đề cập chuyện gia đình nó thì nó lái qua chuyện khác và còn dụ dỗ tôi nữa:

- Anh à. Anh phải về Việt Nam một chuyến mà chơi. Đã lắm anh ạ mà rẻ lắm. Con gái trẻ măng à. Anh cứ cặm cụi ở đây lo làm ăn chả biết cái thú trên đời gì cả, anh nghe em đi…

Thôi rồi! Thằng này lậm qúa rồi đây. Chắc nó bị bùa mê thuốc lú gì đây. Tôi nghĩ bụng chẳng lẽ em nào đó cho nó học hàm thụ sách Vu Sơn của bố "bác sĩ Trần Đại Sĩ " để cho thằng này vào mê hồn trận đây. Tôi cố ngắt lời nó, kéo nó về thực tế:

- Này! Anh không có thì giờ. Ba cái chuyện đó bây giờ có dí sát vào lỗ mũi anh thì anh cũng chỉ ngó thôi chứ không chấm mút gì được. Chị mày đã làm cho anh "tan nát đời hoa" rồi. Bây giờ anh chỉ muốn biết tình trạng vợ chồng chú ra sao mà thôi. Chú xử trí ra sao? Con cái nó sẽ nghĩ gì, và cỡ tuổi chú ăn chơi được mấy thở nữa thì sẽ gục ngã…

Không né tránh được nữa thì Hớn đành phải vào vấn đề. Hớn hùng hổ không chỉ kết tôi vợ mà còn tố khổ cả nhà bên vợ nữa:

- Anh ôi anh đừng tin những gì con vợ em nó nói. Em khổ với nó cả hai chục năm rồi. Em đi làm cậm cụi mà anh biết không bà má vợ em với ông anh vợ cứ thậm thụt nay mượn tiền mai mượn tiền con vợ em; mà mượn rồi có trả đâu vì tiền đâu mà trả họ mượn để đi xuống tàu casino cờ bạc mẹ nó hết thế có chết em không chứ. Ngay nhà của họ mà cũng cầm nữa chứ tiền của em mà nhằm nhò gì. Em nói hoài nó không nghe, nói xa nói gần nó cũng vẫn thậm thụt dúi tiền cho mượn; nếu em gắt thì nó giận dỗi bảo: "Em lấy chồng thì em chỉ có nhờ chồng chứ nhờ ai. Anh lại qúy tiền hơn người thì còn dám nhìn mặt ai". Nó nói thế có ứa gan không?



Tôi ngắt ngang:

- Cái chuyện này thì tùy chú xử trí, nhưng nó có dính dáng gì đến cái vụ "đi Việt Nam" đâu.

Hớn hăng hái:

- Dính chứ sao không dính anh! Bởi vậy em mới làm cho bỏ ghét. Em tằn tiện mà chúng nó lại ăn chơi bằng tiền của mình thì tội gì mình không chơi. Mà có gì đâu anh, văn nghệ qua Internet cho vui ấy mà nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ ấy.

Hắn còn tả oán:

- Em khổ lắm anh à. Gần hai chục năm trời nó hành hạ em qúa trời qúa đất. Nó ỉ nó còn trẻ son sẻ nên cứ hở ra một tí là nó dọạ nó bỏ đi lấy thằng khác cho mà coi. Hồi đó em còn ngu và yếu mềm nên cắn răng chịu đựng chứ giờ em đếch sợ nữa rồi. Anh phải hiểu giờ em làm có tiền, nó thì đã sắp thu tàn tan tác lá rơi rồi thả ra chó nó thèm. Đố kiếm được thằng nào khá hơn em. Bây giờ nó bỏ em thì em thách đấy. Em về VN em cưới một lúc bốn con vợ chứ đừng giỡn. Anh à, có em này ở VN đang mết em lắm anh biết không em nói chuyện điện thoại với "ẻn" rồi. Giọng nói nó dễ thương lắm và tình lắm anh ạ. Kỳ này mà con vợ em nó không để cho em đi VN thì em mặc cha nó em không thiết gì nó đâu.

Nghe đến đây thì tôi xin chào thua nó. Tôi chỉ bảo nó rằng giờ lớn tuổi rồi phải nghĩ đến vợ con nhất là con vợ nó đã cặm cụi với mình từ lúc bần hàn cho đến lúc này. Tôi bi phẫn bảo nó: Tao không muốn xía vào chuyện gia đình nhà mày, nhưng nên nhớ một điều những cạm bẫy ở VN ngay tao đây cũng chưa học hỏi được gì. Nó vẫn hồ hởi: "Anh yên trí đi, đừng lo cho em. Em đâu có ngu anh. Đời có còn dài đâu, tội gì mà cặm cụi như anh ấy có ai thương đâu".



Tôi thấy đây là một chuyện ẩn ức của hôn nhân rất phức tạp, bây giờ nó vỡ bờ đến ục một cái thì khó cứu vãn ngay được. Ngay cả những "marriage counselor" của Hoa Kỳ chắc cũng chào thua. Bố khỉ! Nó làm như mấy thằng cha trong chuyện Kungfu ngậm hờn dưới vực sâu tu luyện chờ cơ hội trả oán trả thù. Còn nó thì ôm hờn chờ đến khi vợ nó tàn tạ nhan sắc thì mới dở chứng. Tôi bảo Yến khuyên Mộc Lan rằng cứ bấm bụng chịu đựng, Hớn đang trong cơn mê chưa kiếm được lối ra. Và nếu nó muốn đi về Việt Nam thì cứ để cho nó đi, giữ làm gì. Để nó đi biết đâu thực tế sẽ dậy và nếu nó dính bịnh Aids thì cũng đáng đời nó lo lắng làm gì…



Bẵng đi hai tháng hôm nay Mộc Lan lại gọi điện thoại tôi không hiểu sẽ là chuyện vui hay là chuyện sướt mướt vì chồng con đây. Tôi đang miên man trong đầu chuyện cái thằng em họ bá vơ này thì Yến ngoắc tôi bảo lấy điện thoại khác để cùng nghe Mộc Lan. Giọng Lan có vẻ hơi hồ hởi:

- Trời ơi chị cố vấn hay qúa nếu không thì em đã chết một cách ngu dại rồi. Khi anh ấy đi Việt Nam em gửi E-mail chửi con bé ấy một trận thậm tệ. Em nói rằng vợ chồng tôi đã có bốn, năm con đang sống hạnh phúc thì các người lại phá hại gia cang nhà người ta như vậy. Muốn có tiền mau thì đi làm cái nghề không vốn bốn lời chứ lại giở thói gian manh lừa gạt phá hạnh phúc ngưới khác mà không sợ trời đánh thánh đâm à? Chửi bằng computer không thấy hả, em bảo nó cho số điện thoại để em nói chuyện với nó.

Yến hấp tấp:

- Thế em có nói chuyện với nó không?

- Có chứ. Em xỉ vả cho một trận nữa nên nó khóc lóc thú thật rằng nó là một đứa con gái tật nguyền bị cụt hai chân lên tới háng vì từ hồi nhỏ khi đi lượm đồ ở một trại lính cũ chẳng may nó đạp phải một trái lựu đạn. Anh trai nó bầy ra chuyện chơi bạn bốn phương trên Internet để may ra kiếm được người nào thương tình giúp đỡ chút tài chánh sống qua ngày. Những lời tình tứ đó là do anh trai nó viết chứ không phải nó. Em nghe vậy cũng thấy mủi lòng thương con bé nên em bảo nó rằng nên nói thật với anh Hớn và nếu cần giúp đỡ thì em cũng không quản ngại.

Yến nhẩy cẫng lên:

- Thôi bà non ơi! Bà nghe chúng nó dỗ ngon dỗ ngọt rồi tưởng thật là bà chết. Em có đến nhà nó chưa mà đã cởi ruột cởi gan ra vậy.

- Thì em tính làm sao giữ được chồng thôi chứ nếu lâu lâu có tốn vài trăm bạc thì trời cũng phù hộ cho em, cũng như trời xui em có chị giúp ý kiến nên em mới qua được cái ải này...



Yến vẫn căng thẳng:

- Chị nói cho em biết nhá. Nếu em không nghe lời chị thì có chuyện gì đừng gọi chị nữa. Mà thằng chồng em nó đi VN về chưa?

- Anh ấy về rồi chị à. Mà làm sao kỳ qúa chị ơi. Từ hôm về đến nay anh ấy cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như mộng du ấy. Thấy cái mặt có vẻ thẫn thờ chứ không hung hăng như bữa trước nữa. Em sợ qúa em không dám ngồi xe chung nữa chỉ sợ anh ấy ủi vào cột đèn thì tiêu đời em.

- Nó vỡ mộng rồi chứ còn gì. Khi về VN thì người yêu sầu mộng của nó là một thằng đực rựa hay một con sứt môi lồi rốn rồi mộng vàng tan vỡ chứ gì nữa. Cho đáng kiếp nó. Mà em vẫn làm đúng như lời chị dặn, lạnh như tiền bế quan toả cảng tới khi nào nó qùy xuống lậy mới thôi… Và từ giờ trở đi bằng mọi giá không cho nó về VN nữa.



Tôi than thầm: "Chết bố em rồi Hớn ơi! Mày có thêm bà chị này nữa thì coi như mày sẽ "tan tác đời hoa". 

 








 
843

Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2007

Bốn cẳng, sáu cẳng




Một thầy cai sai lính lệ đi trát gấp (1); bảo anh ta lấy ngựa mà cưỡi. Anh lính lệ giắt ngựa ra đường nhưng không cưỡi, cứ xắn quần lên tận gối, cắm cổ chạy theo ngựa. Người qua đường lấy làm lạ hỏi:


- Anh điên hay sao mà không cưỡi lên ngựa chạy cho mau?


Anh lính lệ trả lời:


- Khéo cho anh! Bốn cẳng lại nhanh hơn sáu cẳng được à!


(1) trát: cũng như ngày nay ta nói công văn

852

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2007

Nhạy Cảm



 

Ăn cơm mới nói chuyện cũ.Vâng đúng là như thế, chả là vì nhân một buổi họp mặt một số cựu học sinh trường Trung Học Biên Hoà tại Bắc Ca li, tôi gặp lại Xuân, người bạn gái, bạn học thân nhất của tôi những ngày xa xưa . Hỏi các bạn nghĩ thử mà coi nếu không “ăn cơm mới nói chuyện cũ” thì nói gì bây giờ hở trời, sau những câu chào, hỏi thăm nhau về sức khoẻ, về công ăn việc làm …hỏi gì nữa đây ? Hỏi về chuyện chồng con thì cũng ngại ngùng quá, nhưng không hỏi thì sợ rằng người bạn cũ của mình sẽ trách là sao quá vô tình, nên cứ vờ phải hỏi : “Xuân à , Ông ấy giờ làm gì ? Xuân vẫn cái tánh ỡm ờ, vờ vịt như ngày nào :” Hoà nói ông ấy …là ông nào vậy ?” Thì là …ông nhà Xuân chứ còn ông nào . Ai trồng khoai đất này “ . Xuân chu môi ngúyt tôi một cái dài . Cái nguýt như một lưỡi dao cùn , cùn rồi vì hai bên khoé môi đã hằn rõ những vết chân chim …đại bàng, lưỡi dao ấy vừa xước qua vết thương cũ của tôi, tôi nghe một chút đau, một chút dằn vặt và hình như nó lại bắt đầu rỉ máu, giống như những lúc trái gió trở trời, tôi vẫn mãi hoài đớn đau với nó . Tôi biết trong đôi mắt Xuân như chứa nhiều điều trách móc. Mà lạ nhỉ ? Sao lại trách móc tôi hở Xuân ? Ngày ấy nào tôi có lỗi gì ?

Ngày ấy chúng tôi thân nhau lắm, hơn mức tình bạn một chút, mặc dù chưa đứa nào dám nói với nhau điều gì về tình yêu, chưa từng biết mùi vị đắng chát của đôi môi nhau, chỉ biết sơ sơ về dòng điện cực mạnh phát ra từ bàn tay nhau thôi . Ấy thế nhưng đứa nào cũng có cái …”nhạy cảm”, tự biết rằng hai đứa đã là của nhau, cũng đã ghen thầm, cũng đã giận hờn, nhất là Xuân, ôi thôi khi nàng giận thì trời đất cũng muốn xụp xuống, mây mù che kín bầu trời, thế giới trở nên tối tăm, mưa giăng ngập lối . Có lần như thế này thôi mà nàng giận tôi đúng một tháng trời, một tháng trời không thèm cho tôi gặp mặt, thấy tôi từ xa là nàng đã tìm đường lẫn tránh, vào lớp học nàng cố tình như không thấy tôi . Chẳng nói thì các bạn cũng biết tôi khổ sở như thế nào, tôi mất ăn mất ngủ như thế nào, tôi ốm o gầy mòn ra làm sao …Câu chuyện thế này : Hai đứa tôi đang ngồi trong một quán kem, tôi ngâm nga theo câu hát đang phát ra từ dàn Akai của quán :“Ôi tóc em dài đêm thần thoại …”Đúng vào lúc có hai cô gái tóc thề bước vào quán, thế là nàng vùng vằng, nàng bảo tôi là coi thường nàng, có nàng ngồi đây mà còn …dám tung lời ong bướm với những cô nàng khác …Thật là ngang ngược, tôi giải thích thế nào cũng không chịu nghe, cuối cùng tôi xuống giọng xin lỗi, nàng cũng không tha lại còn kết tôi tôi thêm :” Đấy nhận rồi nhá , vậy mà còn cãi “ . Nói rồi ngùng ngoằng nàng bỏ ra khỏi quán đi một mạch, bỏ lại mình tôi ngồi trơ gan cùng tuế nguyệt . Rồi giận mãi .

Đã lâu qúa mới gặp lại nhau . Đã lâu qúa chả hề nghe tin nhau . Đã lâu qúa để lạc mất nhau trên đường đời . Tình cờ hôm nay gặp lại, những tháng năm cũ như sống dậy và tự dưng tưởng như mình trẻ lại như xưa . Ngày xưa hai đứa sau khi xong bậc trung học cùng rủ nhau vào học sư phạm . Tôi thì thú thật là cũng chả ham gì cái nghề dạy học đâu, vì tôi sớm biết đó là cái nghề bạc bẽo mà, tôi vào sư phạm là để tránh đi lính, đơn giản thế thôi, còn nàng thì muốn gần tôi như chim liền cánh, như cây liền cành thế nên nàng theo tôi ra đi . Chúng tôi ra tận mãi Qui Nhơn, quê hương Hàn Mặc Tử, vì tôi có gia đình ông cậu ở đó, vả lại lúc đó vào trường Sư Phạm Qui Nhơn có phần dễ dàng hơn . Nàng ở nội trú . Gọi là nội trú chứ nàng vẫn “dù” đi chơi khuya với tôi hoài . Chỉ đi chơi thôi, đi uống cà phê, đi nghe nhạc, đi coi phim …và vẫn chỉ tay trong tay, mắt trong mắt, chứ môi vẫn chưa trong môi chứ đừng tơ tưởng những chuyện khác . Thằng tôi cù là như rứa . Có lẽ cũng tại cái mùi dầu cù là trong tôi mà tôi đã lỡ một cơ hội, đã nghìn năm ôm mối hận lòng khôn nguôi .Sau này khi chia tay nàng có nói với một người bạn khác của tôi :” Tại Xuân thấy Hoà thế nào ấy …Hoà chả nói gì, Hoà cũng chả …làm gì. Hoà đi chơi với mình cứ y như là một người bạn thông thường  …” . Trời khi tôi nghe được những điều đó thì …đã muộn màng . Chả là vì khi học ở Qui Nhơn nàng có quen một nam giáo sinh . Anh chàng tướng tá rất nghệ sĩ, viết nhạc khá hay, chơi đàn cũng giỏi ….nói như thế để thấy là đối thủ của tôi hơn tôi vài bậc .Tôi đã từng ghen mấy độ với tay này .Vì là tánh tình của một nghệ sĩ cộng với cái tánh tinh nghịch nên anh chàng giáo sinh nhạc sĩ này cũng phá phách ghê lắm, hắn chỉ phá ngầm thôi, nhưng ông cụ bà vãi ta ngày xưa đã nói “tẩm ngẩm, tầm ngầm mà đấm chết voi “. Hắn cũng là một tay uống rượu rất cừ .Có đêm hắn say mèm bò về tới nhà trọ trên đường Gia Long thì hết sức không vào nhà được, lăn ra ngủ ngoài thềm cửa . Sáng ra chủ nhà dậy sớm thấy khách trọ của mình quần áo xốc xếch, ói mửa tùm lum …thấy ghê quá bèn bịt mũi bỏ chạy vào nhà trong xách nước ra dội rửa thềm hè phố .

Một dạo trong nhóm giáo sinh nữ cứ thì thầm, xôn xao mà bọn con trai chúng tôi chả hề biết điều gì xảy ra . Chúng tôi gạn hỏi vài người bạn nhưng những cô bạn ấy chỉ tủm tỉm cười ra điều rất ư là bí mật không chịu thố lộ gì hết. Một hôm tôi về nhà đang ngồi mơ màng soạn giáo án thực tập thì nghe đứa em gái con ông cậu tôi đang nói chuyện xì xào nhỏ to với cô bạn của nó ở nội trú mới ra :” Thằng cha cà chớn, thiệt bậy bạ “ Rồi chúng cười khúc khích .Tôi tò mò lắng nghe .”Thằng cha ấy viết tên của chả ngay đáy quần lót của tao, tao bị hai cái rồi đó mày “ . “ Chắc thằng chả …mê mày rồi “ . “ Ai mà thèm mê thằng chả chứ .”” Thằng chả coi cũng được, đàn hay, hát giỏi và nhất là biết viết thơ, viết nhạc mày còn …chê chỗ nào “ . Thế rồi hai đứa đấm nhau thùm thụp cười như nắc nẻ .Tôi ngỡ ngàng tự hỏi thằng chả nào đây cà …hay là thằng chả nhạc sĩ giáo sinh trong trường mình . Và đúng như thế, người giáo sinh tài hoa ấy cứ vớ được cái quần lót nào của nội trú sinh phơi trong khu nội trú là chàng ta cứ “ịn” cái tên mình vào đó, vào ngay chỗ đó thế mới độc chứ và làm cho khối những nàng giáo sinh “nhạy cảm” cứ tưởng rằng chàng lãng du kia khoái mình nên đem tình trêu ghẹo .Các cô chả cô nào tiết lộ cái điều bí mật ấy ra nên ai cũng chỉ nghĩ là …chỉ mình dành được đặc ân ấy cho riêng mình . Xuân của tôi ngày xưa ấy cũng  “nhạy cảm” y như thế, và từ đó nàng rời xa tôi, mỗi ngày mỗi xa  . Cuối cùng thì chàng hào hoa một đời yêu mưa gío kia chả thương cô nào .Cô nào cũng được anh hát tặng cho những bài tình ca bất hủ .Cô nào anh cũng nháy mắt cười bằng đuôi con mắt mà người đời gọi là lẳng lơ . Nhưng đến giờ này ngồi suy cho kỹ, nghĩ cho cùng, thì chàng kia cũng chả có lỗi phải gì .Có chăng là do cái tánh nhạy cảm của người đời  và cái phá phách ngông cuồng của một cuồng sĩ .Ta có thể trệu trạo mà nói rằng :” Hắn ta là của mọi người “ .Hắn chẳng của riêng Xuân , nên Xuân vỡ mộng, Xuân buồn, Xuân cũng ngượng ngùng chẳng dám gặp lại tôi . Xuân thất tình, Xuân ra trường xin về miền núi dạy trong mấy buôn làng của người dân tộc thiểu số . Từ đó hai đứa tôi mất liên lạc với nhau . Đứng nhìn em khăn gói lên xe thổ mộ về vùng hoang vắng là …”biết xa nghìn trùng “ .

Nào ngờ hôm nay gặp lại . Chuyện cũ tưởng như còn mới trong đầu, nhưng khác một điều là dầu cù là trong tôi đã nhạt mùi theo số tuổi đời chồng chất . Lợi dụng lúc mọi người cười nói râm rang tôi ghé sát tai Xuân nói cho vừa đủ nghe :”Giá mà lúc xưa mình bạo gan bạo phổi hơn một chút thì …” . Xuân phá lên cười :” Ừ giá mà Xuân, lúc đó  dám hỏi thẳng Hoà là “ Hoà ơi Hoà có thích Xuân không “ trước khi quyết định chuyện …”cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ” thì có khi bây giờ đã khác… Chắc vết thương cũ cũng tấy nhẹ trong da thịt nàng, nên thấy nàng có vẻ đăm chiêu, mơ màng. Nếu như chúng tôi có thể làm cho mình trẻ lại như thuở nào ngay lúc bấy giờ thì...trăm phần trăm là...chúng tôi sẽ quyện vào nhau...hôn nhau...đắm đuối trước những ánh mắt...kinh sợ của bạn bè để không còn bỏ lỡ đường tơ  con nhền nhện. Nhưng than ôi ! Không thể chối cãi là cả hai đứa  "đã già". Ngọn "lửa lòng" cũng đã lụn chỉ còn tàn tro, chỉ còn là tiếc nuối hùi hụi. Ngồi đây nhìn nhau mà ngậm ngùi.

Phải chi dạo đó Xuân không "nhạy cảm" với trò chơi vô cùng gợi cảm của chàng nhạc sĩ giáo sinh thì biết đâu chúng tôi lại không bị thất lạc nhau. Chém cha cái gọi là nhạy cảm . Thực hư cứ như là cái tổ con chuồn chuồn chả ai biết nó ở đâu .

840

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2007

Chuyện Cổ Tích Về Tên Trộm



Nhà hắn hoa sứ rụng
Rắc thảm mảnh sân vuông
Hắn thản nhiên vô ý
Giẫm quanh khi hắn buồn.

Một chiều trèo cây mận
Mang theo vở học bài
Hắn ê a ngồi "tụng"
Rồi ... thăng một giấc dài ...

Ê ! Con nhỏ kẹp nơ !
(Hắn giật mình vờ quát)
Trộm hoa sứ phải không ?
Đây không cho, chỉ bán !

Bóng nơ xanh vội tan
Trên nền hoa trắng rụng
Và mỗi khi chiều sang
Hắn lại chờ ... "tên trộm".

Hắn chờ bao nhiêu năm
Người kể không biết nữa
Nhưng hắn rất nhẹ nhàng
Khi bước trên sân đó ...808

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2007

Chiếc Ghế Mây



Khi em rời ghế mây
Chỉ mùi hương ở lại
Tre biến thành thần thoại
Trúc biến thành hoang đường
Anh biến thành tai ương
Thấp thỏm bên chiếc ghế
Cái mùi hương ác thế
Không theo em bay đi
Mà quấn quít bên tre
Mà quẩn quanh bên trúc
Để riêng anh biết được
Có thực, mùi hương kia
Không một ai xẻ chia
Chỉ trừ ra chiếc ghế
Không ngu gì anh kể
Mùi hương này cho ai
Hỡi những chiếc ghế mây
Hiếm hoi trên trái đất
Hãy khinh chiếc ghế sắt
Hãy khinh chiếc ghế bành,
Những chiếc ghế vô danh
Trong căn nhà trải thảm
Nơi chân em chưa giẫm
Nơi tình em chưa ngồi
Nơi Chúa chưa ra đời
Nơi Phật chưa hiện đến
Nơi em chưa rón rén
Những gót chân tuyệt vời
Nơi mọi người hít thở
Chưa thấy mùi em rơi

Nơi đây anh đang hay
Chỗ này anh đang biết
Anh vuốt ve ghế mây
Như vuốt ve truyền thuyết
Tình yêu anh lẫm liệt
Thanh trúc phải cong vòng
Tình yêu anh tận cùng
Thanh tre đành duỗi thẳng
Anh đặt trái tim đắng
Vào chiếc ghế em ngồi
Trái tim trở nên ngọt
Chiếc ghế tình anh ơi
Chiếc ghế tình em ơi
Lúc người kia đi mất
Lúc người này cuối nhặt
Cái mùi hương chưa đi
Như không hề biệt ly
Như không hề xa cách
Trận gió có thổi sạch
Tất cả mọi đền đài
Cơn bão có đùa dai
Anh cũng không lo sợ
Khi lòng anh : em ở
Khi ghế anh em ngồi
Hưởng thời gian muôn thuở
Thuở bắt đầu lứa đôi803

Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2007

Biển



Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê ...

Bờ đẹp đẽ cát vàng
-- Thoai thoải hàng thông đứng --
Như lặng lẽ mơ màng
Suốt ngàn năm bên sóng ...

Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi

Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt ...

Cũng có khi ào ạt
Như nghiến nát bờ em
Là lúc triều yêu mến
Ngập bến của ngày đêm

Anh không xứng là biển xanh
Nhưng cũng xin làm bể biếc
Để hát mãi bên gành
Một tình chung không hết,

Để những khi bọt tung trắng xóa
Và gió về bay tỏa nơi nơi
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa,
Bởi yêu bờ lắm lắm, em ơi

883

Thứ Hai, 19 tháng 3, 2007

Heo đi cày



Nhà tui không nuôi bò, chỉ có một bầy heo với một bầy trâu. Đứng trong nhà dòm ra thì chuồng trâu ở phía tay trái, chuồng heo ở phía tay mặt. Ở xứ này, mùa mưa là muỗi kêu như sáo thổi, trâu hay heo gì cũng phải giăng mùng cho nó ngủ.

Đầu canh năm, bà nhà kêu tui thức dậy, mở chuồng lùa trâu ra ruộng cày. Tui chỉ để ý một điều là lúc ngủ phải quay đầu vô vách để khi giật mình đứng lên, đi ngay ra mở chuồng trâu phía tay trái, rồi lùa đi.

Giống trâu ở nhà tui là giống trâu "phồn" rất to con và mạnh: vai ngang, bụng eo thắt, mông to... Hôm đó, hừng đông, tui lùa hai con trâu "phồn" ra ruộng, gách ách cày. Nhưng không hiểu sao hai con trâu hôm ấy chúng lại cày hăng quá, bước đi ào ào nhanh vô cùng. Khoảnh đất một mẫu tây, cặp trâu đã cày khoảng được gần một nửa thì mặt trời ló mọc. Cặp trâu bắt đầu đi chậm lại, tui cứ cầm cày, mặt ngó xuống đường cày, miệng la: "Ví! Thá!...", tay thì quất roi tới tới. Nhưng lạ đời, chẳng những hai con trâu không chịu nghe "ví, thá" gì mà miệng cứ thở hồng hộc, bước đi lệch bệch...

Cày thêm một lúc nữa, hai con nằm ì ra. Tui nổi giận đánh mỗi con một roi thật mạnh. Nó la một tiếc "éc". Đến chừng nhìn kỹ lại tui mới bật ngửa ra... Hồi khuya, vì vợ tui sửa lại cái chõng ngủ ngược đầu, trước khi đi ngủ tui quên để ý. Đến chừng nghe bả kêu, ba sờ ba sết bật dậy, tui cứ đi ngay ra mà mở chuồng phía tay trái như hằng bữa. Ai ngờ mở lộn nhằm chuồng heo.

879

Thứ Hai, 12 tháng 3, 2007

Chút Tình Tháng Tư



Tháng tư trải vàng hoa nắng
Có con bướm trắng đi về
Chập chờn hai tà áo lụa
Dịu dàng sang cả ngày rơi

Tháng tư cây gòn trĩu trái
Thả bông bay trắng con đường
Có người về qua nghiêng nón
Có người lòng những tơ vương

Tháng tư trải dài mộng ước
Vẽ trên trang giấy học trò
Nồng thơm chút tình sông nước
Ơi người có hiểu giùm cho ?821

Đứa cứng đầu



 - Tôi đi rồi - người phụ nữ nói với người giúp việc mới - đừng quên cho bọn trẻ ngủ lúc 9 giờ.

Khi về nhà, người chủ hỏi người giúp việc xem chị ta cho lũ trẻ ngủ ra sao.

- Rất tốt, thưa bà, tất cả bọn trẻ đều ngủ. Người giúp việc trả lời. - Chỉ trừ thằng lớn nhà chị, cái thằng mặt đỏ hung hung là không chịu nghe lời. Nó cứ chống cự lại tôi thế này này!

- Mặt đỏ hung hung - Bà chủ kêu lên - Trời ơi! Đấy là chồng tôi!

890

Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2007

Chuyến tàu ma!!!



     Thứ sáu, ngày 3 tháng 3 năm 1944. Đồng hồ trên tường chỉ gần 12 giờ khuya. Angelo Caponegro bồn chồn đứng ngồi không yên. Từ ba tháng nay, anh được bổ nhiệm làm trưởng ga tàu hỏa Balvano nằm giữa Naples và Rome. Vài tuần qua, anh bù đầu với công việc...

      Nước Ý đang trải qua thời kỳ hết sức đen tối. Từ mặt trận phía Nam, quân đồng minh đang tiến dần lên phía Bắc với những trận đánh nảy lửa. Được sự hỗ trợ của quân phát xít Đức, miền Bắc nước Ý vẫn nằm trong tay nhà độc tài Mussolini. Những tháng đầu năm 1944, nước Ý bị chia cắt manh mún, oằn oại trong cuộc chiến tàn khốc.

      Như các trưởng ga ở những vùng có chiến tranh, Angelo Caponegro làm việc dưới áp lực và tinh thần trách nhiệm cao. Bằng mọi cách phải bảo đảm an toàn cho các chuyến tàu chở dân tị nạn ra khỏi vùng giao chiến mà không bị phi cơ Đức oanh tạc. Qua khung cửa kính, Angelo thấy khoảng trên chục hành khách đang chờ đi chuyến tàu số hiệu 8017 sẽ đến ga Balvano lúc 0 giờ 10 phút. Angelo đang trông chờ tàu đến. Đây là chuyến tàu cuối cùng trong ngày.

      Tiếng còi hú một hồi dài trong đêm vắng. Angelo bước ra sân ga. Chuyến tàu mang số hiệu 8017 mà trạm cuối là Rome đang chạy vào ga, nhả ra phía sau một vệt khói dài, đen kịt. Tàu giảm dần tốc độ rồi dừng hẳn giữa sân ga. Khách chờ bước vội lên tàu. Hầu như mọi hành khách trên tàu đều mệt mỏi ngủ gà ngủ gật. Tất cả đều đi đến ga cuối: Rome.

      Angelo đi lên phía đầu tàu để trao đổi với lái tàu. Do nguồn dân tị nạn tăng đột biến nên phải nối thêm 5 toa tàu và tăng cường thêm một đầu kéo... Angelo hỏi lái tàu:

      - Mọi việc êm xuôi chứ?

      Người nhễ nhại mồ hôi, lái tàu nghiêng mình ra ngoài cửa sổ đáp:

      - Đến đây thì mọi thứ đều suôn sẻ. Nhưng sắp tới sẽ khó khăn đấy. Qua ga Balvano tàu phải leo dốc đèo. Phải dự trữ đủ lượng than cho đầu kéo.

      Angelo trấn an lái tàu:

      - Tôi sẽ cung cấp đủ than cho hai đầu kéo.

      Than được chuyển ngay lên tàu. Trong lúc đó nguyên đoàn tàu dài nằm im: Tất cả hành khách đều ngủ vì mệt sau những ngày dài phải đối phó với hiểm họa chiến tranh...

      Việc tiếp tế nhiên liệu cho tàu mất hết 40 phút. Lúc 0 giờ 50 con tàu sẵn sàng chuyển bánh. Sau hồi còi dài, con tàu rùng mình chuyển động. Angelo đứng nhìn theo cho đến khi hai bóng đèn đỏ nơi đuôi tàu mất hút trong màn đêm. Anh quay vào phòng làm việc sắp xếp lại sổ sách và ngồi chờ cú điện thoại của Luigi, trưởng ga kế tiếp, thông báo chuyến tàu 8017 đến ga an toàn, trước khi lên giường ngủ. Đoạn đường từ Balvano đến ga Bella Muro dài khoảng trên 20 km. Thông thường tàu chỉ mất 15 phút hoặc tối đa là 20 phút nếu có tăng cường thêm toa.

      Dưới ánh sáng mờ tỏa ra từ bóng đèn trong phòng, Angelo bật lửa châm một điếu thuốc, mắt lim dim mơ tưởng sắp được ngả lưng đánh một giấc sau ngày làm việc căng thẳng. Anh mơ về ngày chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại trên đất nước... 1 giờ 5 phút. Giờ này chuyến tàu 8017 phải đến ga Bella Muro. Angelo nhìn vào chiếc điện thoại móc trên tường, bồn chồn chờ tiếng chuông reo và giọng nói quen thuộc của Luigi thông báo tàu đến nơi... Nhưng chiếc điện thoại vẫn im thin thít. Anh châm điếu thuốc thứ hai. Đồng hồ chỉ 1 giờ 25. Ba mươi lăm phút đã trôi qua từ khi tàu xuất ga. Bỗng chuông điện thoại reo vang. Angelo nhấc máy và nhận ra ngay giọng nói của Luigi, trưởng ga Bella Muro. Nhưng sao hôm nay giọng nói của Luigi không bình thường mà pha lẫn bực dọc:

      - Chuyện gì xảy ra với tàu 8017 thế? Chán chết đi được khi phải dài cả cổ ngồi chờ, tớ buồn ngủ quá đi thôi!

      Đến lượt Angelo giật mình:

      - Cậu nói sao? Nó đã rời khỏi Balvano được hơn 40 phút rồi còn gì!

      Bất chợt Angelo tỉnh táo hẳn, sự mệt mỏi tan biến nhường chỗ cho cảm giác lo lắng pha lẫn tò mò. Phải chăng đấy là linh tính báo trước điều gì không may xảy đến với tàu 8017? Angelo cảm thấy có điều gì đó không bình thường đang diễn ra. Hẳn là tàu 8017 không bị dội bom bởi anh không nghe tiếng phi cơ hay tiếng bom nổ. Không lý gì tàu 8017 lại không leo nổi dốc vì nó được tăng cường thêm một đầu kéo. Có thể tàu leo dốc hơi chậm nhưng lẽ ra nó phải tới Bella Muro từ lâu rồi chứ...

      Để quên bớt âu lo. Angelo xem lịch tàu đến và rời ga của ngày hôm sau. Nhưng càng đọc nỗi lo âu càng lớn dần. Những con số chỉ giờ tàu đến và đi không còn đúng theo lịch như trước đây nữa. Từ nhiều tuần qua, lịch tàu chạy chỉ mang tính tượng trưng. Chiến tranh là như thế. Tàu đến rồi đi bất cứ lúc nào có thể để tránh phi cơ Đức. Lắm khi các trưởng ga chỉ được thông báo giờ tàu đến và đi vào phút cuối...

      Hai giờ khuya. Chắc chắn là có chuyện trầm trọng xảy ra với tàu 8017. Angelo gọi cho Luigi nhiều lần nhưng lần nào cũng chỉ nhận được câu trả lời “Nó vẫn bặt vô âm tín”.

      Giờ thì Angelo không thể ngồi chờ được nữa. Anh quyết định gọi báo cho trạm sửa chữa đầu máy nắm tình hình và yêu cầu gởi ngay đến Balvano một toa đầu máy để cùng phối hợp đi khảo sát tuyến Balvano - Bella Muro. Đầu máy đến Balvano lúc 2 giờ 40 phút. Từ ga Bella Muro, Luigi cho biết vẫn chưa thấy bóng dáng tàu 8017!

      Đầu máy đi khảo sát di chuyển với tốc độ khá chậm để đề phòng bất trắc... Tàu 8017 có thể đã trật đường ray... Trong tình huống tranh tối tranh sáng như thế này, cẩn thận là trên hết. Ở những cây số đầu tiên, không việc gì lạ ở hai bên vệ đường. Hai thanh ray của tuyến đường sắt chạy song song, thẳng tắp. Toa đầu máy đến đường hầm đầu tiên. Angelo bỗng hét to:

      - Dừng ngay!

      Tàu 8017 đang nằm bất động ở phía trước. Con tàu đã vào trong đường hầm, chỉ toa cuối cùng là còn nằm bên ngoài. Angelo và lái tàu nhảy vội xuống đất. Họ chạy đến tàu 8017. Đèn trong các toa tàu vẫn chiếu sáng nhưng tuyệt đối không nghe thấy một âm thanh hay tiếng động nào. Cả hai đầu máy kéo đều bặt tiếng. Sự im lặng đến rợn người ngự trị cả không gian tĩnh mịch của đêm tối. Tay cầm đèn, Angelo bước tới toa cuối của đoàn tàu. Trong ánh sáng mờ mờ, anh nhận ra vài bóng người trên đường ray. Anh rọi đèn vào... và khựng lại. Trước mắt anh là một phụ nữ gương mặt thất thần, bên cạnh là một cậu bé. Xa hơn một tí là hai ngươi đàn ông vẻ lừ đừ, mệt mỏi... Điều làm cho Angelo kinh ngạc là tóc người phụ nữ có màu xám trong khi gương mặt cô ta hãy còn trẻ, chỉ độ trên 20 tuổi. Cậu bé khoảng 6 - 7 tuổi nhưng mái tóc cũng phủ một màu xám! Angelo cất giọng hỏi:

      - Chuyện gì đã xảy ra thế này?

      Câu trả lời là tiếng khóc nức nở của người phụ nữ và cậu bé. Hai người đàn ông cũng tức tưởi khóc. Đi về phía họ, Angelo phát hiện mái tóc của cả hai cũng bao phủ một màu xám! Anh muốn hỏi thăm nhưng đành thôi vì họ đang ở trong tình trạng căng thẳng khó trả lời.

      Angelo cắn răng cầm lòng trước cảnh thương tâm. Anh bước tiếp về phía miệng đường hầm. Mỗi bước đi thể hiện sự gan dạ phi thường đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm của một trưởng ga. Phải tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với tàu 8017.

      Anh vừa qua khỏi toa tàu cuối của đoàn tàu. Hiện anh đang đứng dưới vòm của miệng đường hầm. Khung cảnh hoàn toàn bao trùm bởi sự im lặng rờn rợn. Anh bước lên toa tàu kế tiếp, mở cửa và bước vào buồng đầu tiên. Có 8 hành khách ngồi trên hai dãy băng dài gồm phụ nữ, đàn ông và trẻ con. Trên sàn tàu là đống hành lý hỗn độn gồm đủ loại vật dụng mà người tị nạn thường mang theo. Mọi người có vẻ như đang say ngủ. Angelo đưa tay vỗ nhẹ vai người gần nhất. Ông ta lật ngang và lăn đùng xuống sàn tàu kéo theo tấm thân gầy còm của người phụ nữ ngồi kế bên.

      Năm phút sau, Angelo bước ra khỏi đường hầm, gương mặt thất sắc, tái xanh như tàu lá. Anh nói với lái tàu:

      - Tất cả đều hồn lìa khỏi xác. Trên 500 sinh mạng con người!

      Angelo làm bản báo cáo lên chính quyền các cấp. Tuy nhiên, do tình hình chiến tranh nên sự việc được giữ bí mật. Mãi về sau, ủy ban điều tra mới công bố nội bộ nguyên nhân của vụ "tai nạn" được xem là sự kiện hy hữu nhất trong lịch sử đường sắt mà cho đến bây giờ ít người biết đến.

      Kết luận của ủy ban điều tra vụ tai nạn khá là hợp lý: Trong đường hầm có một đoạn dốc cao, có thể nói là cao nhất trên cả tuyến. Hai đầu máy không đủ sức kéo nên cả đoàn tàu đứng khựng lại. Than được đốt tối đa và lái tàu nhấn hết ga hòng vượt qua đoạn dốc. Chất lượng than lúc bấy giờ rất xấu. Khi đốt, nó thải ra lượng lớn ôxýt cacbon. Loại khí rất độc hại này nhanh chóng lan tỏa trong đường hầm. Hành khách và nhân viên đoàn tàu hít phải khí độc và tử vong.

      Trong đêm 3 rạng sáng 4-3-1944, có tất cả 521 nạn nhân chết trong vụ tai nạn. Chỉ 4 người còn sống sót nhờ ngồi ở toa cuối cùng nằm bên ngoài đường hầm lúc xảy ra sự việc. Tuy nhiên, họ cũng bị nhiễm độc khá trầm trọng. Tóc họ chuyển sang màu xám. Khí ôxýt cacbon đã làm tổn thương não bộ không thể nào hồi phục.

      Riêng đối với Angelo Caponegro, là một đêm kinh hoàng mà anh không bao giờ quên trong đời.

833

Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2007

Nhanh chân



 Cái nhà hàng chết tiệt ấy chứ, miếng thịt rán thì bé tí, khoai tây thì ít, mà bồi bàn thì chậm chạp...

Cậu con trai tiếp lời:

- Và nếu không nhanh chân thì chúng ta đã phải trả tiền cho những thứ đó rồi, bố nhỉ!

887

Chủ Nhật, 11 tháng 2, 2007

Người hàng xóm tốt bụng



Một đêm mưa bão, các cánh cửa bị gió lắc mạnh, người chủ nhà phải đội mưa chạy ra sửa lại các then cài bị bật ra. Đang lúi húi làm thì ông bị một người nào đó đá cho một cái trời giáng, té bổ nhào.

Sáng hôm sau, ra quán ăn sáng, ông ta nghe anh hàng xóm kể chuyện:

- Tối hôm qua, lúc đang mưa to, nhìn qua cửa sổ, tôi thấy một bóng đen đang cạy cửa nhà anh. Tôi liền chạy qua đạp cho nó một cái. Xóm giềng, mình phải giúp nhau...897