This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2007

Xuân Ðợi






Cả nhà đợi Thiện đã mấy ngày nay. Má tôi vì chẳng biết nó có đem nếp như mọi năm không, mua trước đâm ra dư phí đi. Ba tôi thì đợi để được thông tin về những bà con mà lâu nay công việc làm ăn quay mù chẳng còn thời gian thăm viếng. Các em tôi lại mong được dắt Thiện đi vòng vòng thành phố chơi, thú vị với vẻ hiền lành của anh và để có được niềm kiêu hãnh về một lối sống hiện đại. Tôi lại vì một lẽ khác, gặp Thiện thì như bắt gặp cái gì đó thật gần gũi, thật dịu dàng dễ chịu, bởi tôi là đứa chậm hội nhập với cuộc sống mới nhất trong nhà.



Hăm bảy rồi, đã thấy Tết trong những chậu cúc, mai, mãn đình hồng theo xe đò hoặc những ba-ga xe cub vụt qua lại trên đường. Bánh mứt, dưa hấu xếp như núi trong chợ, ngoài các ki-ốt dã chiến. Và cả trong các bước chân hốt hả. Tết đó nhưng hình như chưa đủ, bỗng thấy nhớ những Tết năm xưa dạo nhà còn ở dưới quê. Hầu như nhà nào cũng cùng một thứ công việc. Dọn cỏ quét vôi mồ mã để ông bà cùng về vui tết, về qua hái ít trái khế chua đánh bóng bộ lư đồng, sẵn lau dọn bàn thời, cắt ít vuông giấy đỏ dán lên cặp dưa, bứng vài ba chậu vạn thọ đặt theo những gốc vột dọc hành lang... Trong bếp thì khói um um, chảo mứt tỏa thơm lựng lẫn mùi ngọt hăng xông lên từ đám dưa cải, dưa kiệu trong mấy chiếc khạp nhỏ xếp hàng đằng góc bếp. Dịch ra ngoài chút xíu, nồi bánh đang sôi sùng sục, trẻ con chạy quanh đôi mắt hau háu, cái cười viên mãn. Tôi là con gái đầu nên đây là những ngày bận rộn nhất, suốt ngày lăng xăng trong bếp với má. Ba tôi bận làm ăn trên Sài Gòn, việc đàn ông giành hết cho Thiện. Ấy là thói quen rồi.



Nhà Thiện sát nhà tôi. Mẹ Thiện trước có sạp khô mắm ngoài chợ nên cuộc sống cũng đỡ khổ, nhưng sau ngày bà mất, mấy cha con chỉ quây quanh việc làm mướn kiếm sống. Ruộng rẫy làm theo thời vụ nên thu nhập cũng rất bấp bênh. Ba tôi thấy vậy bảo mấy ba con Thiện sang làm “công ruột”, nghĩa là bao hết việc đồng áng, nhận lương ổn định, có thể ăn cơm luôn. Chú Tám đồng ý. Vậy là từ đó chúng tôi cùng làm việc, ăn chung và chơi chung với nhau. Nhà đông vui hẳn lên. Họ thật thà nên ba tôi tin tưởng lắm, và vì hàm ơn mà tự nguyện giúp gia đình tôi đủ việc, những dịp lễ lộc, cúng tế một tay họ lo. Tết cũng vậy, chốc chốc chạy lên xem Thiện “làm mới” nhà trên, nghiêng bên này, ngó bên kia, đạo diễn cho anh, trong bụng không khỏi bảo “thẩm mỹ” lắm!



Sáng mồng một tất cả lên đồ xếp hàng đợi lì xì. Những phong bao đỏ cho cả chúng tôi lẫn anh em Thiện. Rồi túa ra với đủ thứ trò, cười nói, la hét, ăn đồ ngọt, xả rác trăm thứ tha hồ không sợ bị mắng. Má bảo Thiện chở tôi lên chùa lạy Phật. Thấy tôi mặt áo dài, Thiện cũng “vô thùng” hẳn hoi. Nhỏ em tôi cười híp mí, y như cô dâu chú rể về nhà má, mắc cở muốn trốn. Mà thật, ăn mặc như vầy thấy mình lớn và khác quá, xưng hô mày tao nói năng như hằng ngày thấy cũng kỳ kỳ. Bắt đầu từ mùng hai nhà lúc nào cũng chật khách. Bà con hàng xóm tới chúc tết cười nói râm ran, hầu như mọi phiền muộn đã trút hết từ chiều ba mươi. Ðông nhất vẫn là bạn bè của ba ở Sài Gòn, ai cũng sang trọng, cao lớn, vui vẻ ồn ào nhưng khó gần. Tôi lớn nhất nên cũng được chú ý. “Con gái khá lắm, mai mốt chú làm mai dân hải quan cho”. “Xời, đừng thèm, để chú giới thiệu cho, trí thức hẳn hoi, bác sĩ, đẹp trai đàng hoàng”. Tôi chỉ biết lí nhí: “Dà, cháu còn nhỏ”. Thiện đứng ngoài hành lan chắc cũng đã nghe. Quê quá!



Nhưng rồi chẳng còn được vui một cái tết nhà quê nào nữa. Hôm kia ba tôi về phán: “Cả nhà sắp xếp lên trển ở, con Mỹ được gần trường, hai đứa kia có dịp học thêm ngoại ngữ, mẹ mày lớn tuổi rồi, buôn bán đỡ hơn làm rẫy. Vườn đất thì để cha con chú Tám mướn làm, tiền thu mỗi năm sẽ bàn sau... “Mọi sự sau đó đúng như ba xếp đặt. Từ đó, cứ tết đến, chú Tám lại sai Thiện đạp xe đem quà lên cho chúng tôi. Vậy là cứ đúng một năm tôi mới lại gặp Thiện. Háu hức mong đợi bao nhiêu rồi cũng nói với nhau những câu xã giao, xa lắm là chuyện xóm chuyện làng bởi Thiện sau này lạ lắm, trông buồn buồn và kém hòa đồng. Ðôi khi nhìn anh tôi nghĩ không biết đây có phải “cu Thiện” hay cười, hay nói, cứ chuyền thoăn thoắt qua cành măng “dọi” cho cô Mỹ của ngày xưa nữa không. Chỉ dám nghĩ trong bụng cái điều: Có phải Thiện mặc cảm, rồi bằng cách này cách khác cố biểu hiện cái điều: không nên đâu, Mỹ quí Thiện lắm.



Và có phải Thiện cũng chẳng muốn đến đây nữa? Ðã hăm bảy rồi! tôi vẫn nghe ba tôi dọa bán đất, nếu vậy thì có thể lắm chứ.



... Cuối cùng thì anh cũng đến. Vào buổi sáng. Cái giọng ồm ồm đe dọa khách của con lu buộc khách phải chửng lại. Tôi nhìn ra. Thiện dắt xe đạp, người hơi khòng, mặt hốc hác kinh khủng. Trên pa-ga cũng lỉnh kỉnh những dừa, nếp, đậu... và còn thêm một cô gái đôi mắt với tia nhìn “liên tục đổi mục tiêu”, miệng chưa chi đã cười toe quên phứt chiếc răng khuyết, tay chưa chi đã với bứt một nhánh lá tùng. Ồ, Chi xí xọn, đứa con gái hàng xóm mà hồi trước tôi với Thiện đều ghét cay ghét đắng. Nhưng đó là chuyện xưa, còn bây giờ thì đấy là hình ảnh kỷ niệm. Cảm xúc về bạn bè, tuổi thơ, quê hương chợt đầy ắp trong tôi. Tôi ào đến nắm lấy tay nó. Nó cũng mừng rỡ. Duy chỉ có Thiện vẫn giữ vẻ nghiêm lạnh. Thiện bảo phải về gấp nên cần gặp má tôi ngay.



Câu chuyện của hai người lọt qua những khe cửa ngăn nhà ngoài.



- Năm nay trời không lạnh, trái cây thất mùa, thím à. Còn lúa thì “ông tí” phá quá, cúng kiến hay giăng bẫy đều không ăn thua, đành chịu đứt vốn. Con nói để chú thím thương mà cho nợ lại một nửa tiền...



- Chà khổ hà! Thời tiết ngặt quá. Ông này ổng cũng tính kêu người bán đất. Ðất bây giờ là vàng đa.



Lại nghe tiếng thở dài không biết của ai. Tôi bỗng ái ngại vì câu nói thiếu cảm thông của má.



Nhỏ Chi tha thẩn chỗ mấy bồn kiểng. Tôi bất giác ngắm nó. Chiếc áo hồng với những đường viền đăng ten chạy quanh cổ tay cho thấy một cố gắng làm mới. Chiếc nơ trắng to tướng đặt trên guộn tóc dày. Cũng làm nó xinh đó chứ! Giá nó đừng khuyết một cái răng cửa. Tôi bất giác liếc nhìn mình trong chiếc gương lớn trên tủ, cười một nụ đủ cho thấy những chiếc răng hạt bắp rồi quay sang nó. Hình như nhìn thấy trong đó vẻ thiện cảm, nó cũng mỉm cười, môi trên chum chúm để giấu chỗ răng khuyết, tay ngoắc ngoắc tôi:



- Chị Mỹ, mai mốt chỉ tôi một chỗ may áo dài đẹp đẹp nha. Tôi sắp lấy chồng.



- Sẵn sàng thôi. Mà ai vậy?



- Anh Thiện chớ ai. Anh nghèo, tôi cũng nghèo, rồi thương. Thấy tôi không được đi đó đi đây, bữa nay ảnh cho theo đặng cho tôi biết Sài Gòn đó.



Nó nói rồi cứ đứng trân, hai tay thỏng xuống, cái miệng cười hoài không khép, nhìn lâu càng có vẻ rộng ra thêm. Tôi nghĩ nó không được bình thường vì bộ dạng đó cộng với câu nói kia nữa. Thiện thương nó là sao? Thiện chúa ghét tính thài lai của nó mà! Tôi nhìn lại nó một lượt nữa nhưng không dám nhìn lâu rồi bước gấp vô nhà. Thiện đứng chỗ cửa ngan. Anh cũng cười cái cười méo mó để lộ những chiếc răng ám khói. Hồi trước, tôi nói ghét khói thuốc, anh gật, bảo sẽ không bao giờ hút thuốc mà. Cũng với cái dáng khòng khòng, khuôn mặt sạm nắng, nó là chi tiết đắt giá góp phần hoàn chỉnh bức chân dung về một nông dân mà những thất bại mùa màng làm cho khắc khổ, cằn cỗi đi. Rồi anh sẽ lấy vợ, sinh con và nuôi con, vất vả ruộng sớm đồng trưa nhưng chẳng bao giờ tìm thấy hạnh phúc bởi vợ anh là người phụ nữ mà chưa bao giờ anh yêu. Không hiểu sao cái cười của anh lại khiến tôi tin cái điều nhỏ Chi nói. Ngẫm nghĩ tôi thương cho Thiện quá, nhưng lại cũng oán anh. Những muốn không thèm đếm xỉa nhưng cuối cùng tôi cũng đứng chặn anh lại:



- Thiện tệ lắm, không dè chẳng ra gì!



- Tôi xin lỗi... – Anh cất giọng rầu rầu.



Ôi, tôi chỉ muốn khóc thật to lên cho thoả. Trí tưởng tượng của tôi bỗng hóa Thiện thành cha anh, già nua xương xẩu, cố giơ cao cái cuốc cắm phập một nhát tóe bụi vào đất. Nhưng đó không phải mảnh đất của nhà mình. Ông làm thuê cả đời mà. Kinh khủng quá.



- Cái gì kinh khủng? Ðộng đất hay bị gả ép?



Lâu lắm tôi mới thấy chị ngủ trưa vậy.



Tôi thức dậy vì câu nói ấy của nhỏ em. Ngơ ngác và rồi rất mừng vì mọi sự là chiêm bao, một giấc chiêm bao buồn và quái gở. Không biết tôi có gọi tên ai ra không? Tôi sợ nhỏ em tôi là đứa nguy hiểm, chuyên đi guốc trong bụng người khác. Nhưng nó đi rồi.



Tôi choàng dậy, bóc một tờ lịch, nhìn xuống đường. Buổi sáng hăm tám vẫn như mọi buổi sáng khác. Vẫn ồn ào, người người, xe xe nhắc rằng: đây mới là thực. Sự thay đổi của Thiện, điều nhỏ Chi nói, cả quyết định bán vườn của má tôi đều là chiêm bao hết. Nhưng còn chuyện thất mùa. Lâu rồi không về quê nhưng tôi cũng đã trông thấy ở đây hàng đống xác rầy nâu bu theo đèn mà chết. Lại thêm đông vừa rồi không lạnh, người thành phố chỉ mất đi cơ hội diện những chiếc áo ấm mốt nhất, nhưng với người nông dân thì, có thể sẽ mất đứt một vụ trái cây. Có thể không?



Nhưng, nay mới chỉ hăm tám, vẫn còn một ngày để chờ Thiện mà!

836

Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2007

Vệ Đường Hoa



     Hết mùa mưa, Đà Lạt lạnh hơn với tia nắng rực rỡ. Bên đường anh đi nở rộ một loài hoa vàng. Nhiều người gọi tên hoa là đông quỳ hay dã quỳ. Riêng anh, mãi mãi hoa vẫn là: Vệ đường hoa.

      Vệ đường hoa! Vệ đường hoa!

      Trời xanh cánh gãy: nửa đời ta.

      Em, tình cờ nào đã xui hai đứa gặp lại nhau sau mười bốn năm xa cách. Anh vẫn tưởng không bao giờ còn nhìn thấy em nữa. Ai ngờ chiếc xe hơi mới tinh đưa vợ chồng em vượt mấy trăm cây số đến thành phố này, lại hỏng máy nơi gần xưởng anh làm thợ. Thoạt đầu ta chưa nhận ra nhau vì em khuất lấp sau mấy người tò mò đứng xem hai vợ chồng Việt kiều và chiếc xe hơi lạ mắt. Còn anh, áo quần tay chân lấm lem dầu mỡ, đang mải nghe chồng em giải thích những bất thường của máy xe bằng thứ giọng Huế xa quê đã lâu ngày, thỉnh thoảng điểm vài thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài. Chồng em, khuôn mặt tròn tròn, mang đôi nét mũm mĩm như búp bê con trai, đôi lúc thoáng chút băn khoăn, ý chừng thắc mắc không biết anh thợ trước mặt có hiểu được những rắc rối của kỹ thuật mới chăng. Và, anh đã nhìn lên để ta nhận ra nhau sau một thoáng ngỡ ngàng. Tiếng reo mừng của em vẫn sáng trong như ngày nào nhưng anh nghe tưởng như trong mơ. Giọng ngập tràn niềm vui, em giới thiệu hai người: Anh là người quen cũ, người anh sinh viên của ngày xa xưa khi em còn là cô nữ sinh Đồng Khánh những năm cuối bậc trung học. Nửa giờ sau, khi xe sửa xong, cầm nắm tiền công do chồng em trao, anh đã cố tình không nghe tiếng em hỏi chỗ anh ở để ghé thăm.

      Ngày ấy, đã lâu lắm rối, mười bốn tuổi, anh xin vào ở Viện Dục anh, lớn lên nhờ sự đóng góp của những người hảo tâm. Bọn anh gần một trăm đứa, hằng ngày ăn hai bữa cơm thiếu thốn. Phần lớn bạn đồng viện của anh đều mồ côi hoặc thuộc loại bỏ nhà đi hoang. Thiếu thốn nhưng không hiền lành vì đời dạy bọn anh lắm bài học qua cách kiếm sống bằng nghề đánh giày, sửa xe đạp lề đường, bán báo, bán vé xi nê chợ đen và cả chục nghề khác. Anh và chừng vài mươi đứa nữa lại theo đuổi cái nghề mà bạn bè ai cũng chê: đi học. Chắc em còn nhớ khu vườn có hàng rào kẽm gai mấy lớp, bên trong có vài căn nhà cũ, rộng, kiểu Pháp, treo tấm biển Viện Dục anh nằm ở cuối một con đường rất đẹp trong thành nội. Ngày ấy, anh ở cùng đường với em. Mỗi người ở một đầu con đường im bóng cây cao. Nhưng đám con gái có bao giờ dám đi đến cái khúc đường trời đánh của bọn anh? Ta chưa biết nhau mãi cho đến cái ngày hai trường Quốc Học và Đồng Khánh tổ chức chung lễ phát phần thưởng cuối năm tại Nhà hát Lớn TP. Năm đó anh học lớp đệ nhị, đôi khi trên đường đi học anh thấy em, cô bé xinh xinh, ngày ngày xe hơi nhà đưa đón từ trường về ngôi biệt thự màu hồng ở đầu đường. Hôm ấy anh vất vả với đống phần thưởng danh dự toàn trường, trong túi không còn một đồng thuê xích lô chở về. Vừa lúc đó em xuất hiện. Em mặc bộ đồ đầm trắng khác hẳn chiếc áo dài đồng phục hằng ngày, xúng xính ôm gói phần thưởng văn nghệ lớp đệ ngũ ra cửa hội trường, sắp bước lên xe nhà chờ sẵn. Anh đánh bạo bước tới xin đi nhờ. Có lẽ anh ngố lắm hay sao mà cả em và chú tài xế đều bật cười rồi cho phép lên xe.

      Từ đó, ta biết nhau. Em trở vào ngôi biệt thự êm đềm, anh về lại cùng đám bạn văng tục chửi thề và thường xuyên nói chuyện với nhau bằng những quả đấm. Thế mà ta lại quen nhau hơn qua những lần gặp gỡ không hẹn trước. Đã bao lần dưới tàn cây dứa dại um tùm trong công viên trước trường hai chúng ta, anh đã giải giúp em và bè bạn những bài toán khó, hoặc làm sẵn bài luận văn cho em chép lại. Thuở ấy, anh chẳng dám nghĩ mình là bè bạn, bởi rõ ràng ta không cùng mức sống. Tuy tâm tưởng ngại ngùng, anh vẫn thầm vui được làm kẻ quen em. Nhờ có em, anh đã có vài thay đổi, mắt nhìn bớt dần ác cảm với cuộc đời nghiệt ngã. Như chiếc áo cố giữ sạch nhất anh dành để mặc mỗi khi đi qua nhà em, dầu có hay không có em đằng sau cánh cổng, anh lần hồi bớt tham gia cùng chúng bạn đi đánh lộn với các nhóm choai choai ở các xóm khác. Cứ như thế bạn bè đâm ghét anh, và thật buồn khi sách vở, giày dép, áo quần lần lần bị chúng ăn cắp gần hết. Anh vẫn mong nhịn nhục cho qua năm cuối cùng bậc trung học, để sau khi thi tú tài xong, sẽ rời bỏ nơi này ra đời kiếm sống.

      Nhưng không được. Buổi tối mùa đông năm ấy, trời Huế mưa sướt mướt đã mấy ngày, anh từ nơi dạy kèm về Viện Dục anh, đã bị nhóm du côn xóm Tây Lộc do có hận thù với một băng bên trong viện, đã chực sẵn để giáng trận đòn thù xuống bất kỳ thằng “mồ côi chó đẻ” nào bên trong viện. Vô tình anh lại là nạn nhân của trận đòn thù. Anh chống đỡ yếu ớt, cố bỏ chạy được một quãng nhưng không thoát kịp. Bất ngờ có ánh đèn pha xe hơi xuyên thủng màn mưa chiếu sáng cả một quãng đường vắng. Bọn du côn bỏ chạy vì ngỡ xe tuần cảnh. May cho anh, cả nhà em vừa đi xi nê về. Dưới ánh đèn pha, em hốt hoảng nhận ra anh gục người ngồi tựa vào cổng nhà. Anh thoáng nghe lao xao tiếng người nói, tiếng ba em quát bảo vào nhà gọi điện thoại kêu xe cảnh sát đến xúc đi. Tiếng em van xin ba chở bạn em đến bệnh viện.

      Anh tỉnh dậy sáng hôm sau trong nhà thương. Gần trưa, em và cô bạn đến thăm anh. Lúc đầu, em hơi giận anh vì tưởng anh còn nhập theo bọn du côn phá phách xóm làng. Dần dần, em hiểu ra, nhìn anh mỉm cười an ủi. Khi em chào về, anh gượng ngồi dậy tiễn nhưng ê ẩm cả người không ráng được. Em về rồi, anh nuối tiếc như mất đi một vật gì quý giá. Hôm sau em lại đến, một mình, mang lại niềm vui bay bổng như thiên thần. Anh không còn thân nhân, ngoài người chị lấy chồng phương xa mỗi năm vài lần thư thăm hỏi. Em bao dung, chăm sóc anh như người em gái. Có em, không khí buồn tẻ của nhà thương trở nên đầm ấm. Anh tưởng chừng như mình quen nhau từ nhiều năm trước, hay từ một kiếp nào. Anh không còn nhớ chúng mình từ lúc nào đã bước ra khỏi khuôn khổ của tình bạn để vào thế giới của tình yêu. Một thế giới mà cả anh và em chưa từng bước vào trước đó. Chỉ biết rằng ba tuần sau, khi anh ra viện, chúng mình bắt đầu trao thư qua trung gian cô bạn gái.

      Em mười sáu tuổi, ngỡ ngàng trong thứ cảm xúc hình như là tình yêu. Anh mười chín, chẳng có gì trong tay, chỉ một hồn đầy mộng mơ. Không nhà cửa, không người thân gần gũi ngoài tình em. Ngay từ đầu chúng mình đã biết gia đình em không thể nào chấp nhận anh. Ba em, người thầu khoán nổi tiếng hàng đầu ở cố đô Huế; me em, bà chủ đại bài gạo tấp nập bên bờ sông Hương. Dưới mắt ba me, anh chỉ là một thằng du côn đã một lần gieo tai giáng họa trước cổng nhà. Anh chỉ còn biết một lối thoát để qua đó đạt được ước mơ hằng ấp ủ, đó là con đường học vấn. Kỳ thi năm ấy anh đỗ ưu hạng. Mừng anh, em đến căn gác trọ thăm anh. Chúng mình đã sống cho nhau trọn một ngày.

      Ngày ấy em mười bảy,

      Ta trao nhau tình sâu,

      Tuổi ấy đừng yêu thế,

      Anh dại khờ biết đâu.

      Rồi anh vào đại học, miệt mài bốn năm với sách vở. Chúng mình có khi giận, khi thương nhưng tình yêu vẫn còn như sợi dây êm ái nối liền hai đứa. Gia đình cấm đoán quyết liệt. Anh vẫn nuôi hy vọng đến ngày thành đạt để được hội nhập vào tầng lớp của ba me. Thực tế sau này chứng minh đó là ảo vọng, nhưng hồi ấy anh tin tưởng lắm nên dồn hết mọi ý chí và năng lực để học hành. Vừa đi học vừa đi làm để kiếm sống, làm rất nhiều nghề, kể cả cái nghề làm máy mà hiện nay anh đang bám víu để nuôi thân qua ngày.

      Sắp đến ngày ra trường, vì đỗ đầu khoa nên anh được thầy viện trưởng đại học trao cho tấm giấy mời danh dự của chiếc ghế dành cho người thân của thủ khoa. Cầm thẻ mời anh ứa nước mắt, vì chẳng còn người thân nào gần gũi. Anh tặng em tấm giấy mời để hoặc là dán vào album làm kỷ niệm hoặc là nếu có can đảm thì đến dự lễ ra trường cùng anh vì buổi lễ được tổ chức rất lớn, như là một ngày hội của toàn thành phố. Anh cám ơn lòng can đảm của em, vì khi trong trang phục giáo thụ bước lên lễ đài lãnh văn bằng, có một giây nào đó anh chỉ thấy có em.

      Chuyện chúng mình vì thế lại đến tai ba me, bạn bè kể cho anh nghe có lần ba đã đánh em vì chuyện ấy. Ba me lần này gần như thành công khi cấm hai đứa gặp mặt. Đám khách mời dự tiệc hằng tháng ở nhà em phần lớn là tướng, tá và nhà giàu, trong đó có người ba me hằng mong kết sui gia. Lần hồi anh hiểu ra rằng, ước nguyện của ba me không đặt ở nơi việc học hành thành đạt mà lại hướng về tiền bạc và quyền thế. Anh không thuộc hai giới đó nên trong mắt ba me anh vẫn chỉ là một thằng côn đồ chực hăm hở cướp con gái nhà người ta. Anh tìm gặp thầy viện trưởng xin lên Đà Lạt dạy học. Thầy rất đỗi ngạc nhiên vì đã dành cho anh một chỗ xứng đáng ngay tại viện đại học.

      Ngày lễ chọn nhiệm sở, thủ khoa đã gây ngạc nhiên cho nhiều người khi đứng trước micro tuyên bố xin chọn Đà Lạt, nhường nhiệm sở nơi đây cho người kế tiếp. Sau đó chúng mình gặp nhau lần cuối. Xứ Huế rất thành kiến với con gái bỏ nhà đi theo trai. Em buồn đau nhiều lắm nhưng không dám làm gì. Thế là anh lên cao nguyên mà không có em...

      Bỏ lại Huế sau lưng, anh mang tâm trạng gần như “kẻ từ quan, lên non tìm động hoa vàng”... Anh làm giáo sư tại trường nữ trung học lớn nhất xứ hoa đào. Thỉnh thoảng nhận được thư em, anh mang ra đồi nằm trên cỏ đọc đi đọc lại hàng chục lần. Mây cao nguyên bay nhanh hơn rất nhiều so với những lần mình cùng nhau nhìn mây trên đồi Từ Hiếu, nhưng lòng anh không chút rộn ràng. Anh yêu một loại hoa vàng mọc dại bên đường. Vệ đường hoa bước vào đời anh từ đó.

      Nhưng những biến động thời cuộc từ giữa tháng 3/1975 đã cắt đứt con đường anh tìm về gặp em. Tàn cuộc chiến, anh về Đà Lạt tiếp tục dạy học tại trường xưa.

      Tin em vẫn biền biệt, dù đã nhiều lần anh gửi thư về con phố nay đã thay tên. Bạn bè cho biết gia đình em không còn ở Huế nữa. Mãi hơn một năm sau anh mới nhận được thư em, mỗi lời thư như một giọt buồn rót vào hồn anh ngay từ câu mở đầu: “Anh yêu, ta xa nhau mãi mãi. Một năm nay em vẫn dõi tìm địa chỉ của anh, vừa biết anh vẫn dạy trường cũ. Bây giờ đại dương đã xa cách chúng mình...”.

      Năm sau anh lại nhận được tin em và cánh thiệp hồng gửi từ Bắc Mỹ báo tin em lấy chồng. Chồng em là con của một trong những người khách vẫn dự tiệc hằng tháng tại nhà em hồi ấy. Thế là mãi mãi em đã xa khỏi tầm tay anh...

      Bây giờ anh dồn hết lòng yêu thương cho đám học trò. Anh cũng vác cuốc theo học trò đi lao động, làm thủy lợi hoặc xới đất trồng khoai. Nhưng có những lúc dừng tay cuốc nhìn đám mây trôi nhanh giữa trời xanh ngắt, chợt thấy em hiện về trong tâm tưởng, vẫn hàng mi cong vút và mái tóc dài cuốn gió tung bay trên đồi Từ Hiếu.

      Lỡ mất em trong cuộc đời, anh chỉ còn cố bám vào chút tình yêu cuối dành cho nghề dạy học. Nhưng rồi nợ cơm áo và tình người hờ hững đã buộc anh phải rời xa lớp, chuyển sang làm thợ máy...

      Không khí lạnh đầu mùa khô bắt đầu mơn man hoa lá trên những lối mòn quanh co của thành phố miền cao. Những cặp tình nhân từ khắp nơi đổ về hưởng vị ngọt của tình yêu hòa trong hơi lạnh. Từng đôi, từng đôi ngập tràn trong hạnh phúc... Có một loài hoa sắc vàng giữa đám lá xanh: Vệ đường hoa.

830